Nhân Quyền Tại Việt Nam

Nhân Quyền Tại Việt Nam


Lynn Huỳnh

 

10.12 hằng năm là ngày Nhân quyền Thế giới. Xoay quanh vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, cũng tồn tại nhiều ý kiến trái chiều. 

Thông tin tổng hợp được từ báo chí Việt Nam thì Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm quốc gia có mức phát triển con người cao với Chỉ số Phát triển con người (HDI – Human Development Index) năm 2023 đạt 0,766, xếp thứ 93 trên 193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong hơn 3 thập kỷ (1990-2023), chỉ số này đã tăng tới 53,5%, phản ánh nỗ lực bền bỉ trong việc cải thiện y tế, giáo dục và thu nhập cho người dân. Trong lĩnh vực quyền trẻ em, Việt Nam là quốc gia châu Á đầu tiên phê chuẩn Công ước Quyền trẻ em (CRC). Sau 35 năm triển khai, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 58,9‰ (phần ngàn) vào năm 1990, xuống còn 16,9‰ vào năm 2024.

“Đây chính là sự ghi nhận cao nhất của cộng đồng quốc tế đối với chính sách, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước… đặc biệt trong việc bảo đảm quyền con người”. (theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Hoàng Giang).

Trong chiều hướng ngược lại, theo tổ chức phi chính phủ quốc tế Human Rights Watch có trụ sở tại New York, chuyên điều tra và báo cáo về các vụ lạm dụng nhân quyền trên toàn thế giới thì: “Chính quyền Việt Nam đè nén các quyền tự do cơ bản của người dân, như tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm họp ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo. Các công đoàn, tổ chức nhân quyền, báo chí độc lập và các đảng phái chính trị vẫn bị cấm thành lập và hoạt động. Ngành tư pháp không được độc lập, và các tòa án thường xuyên phủ nhận quyền được xét xử công bằng và đúng trình tự của các bị cáo. Công an rà soát mạng internet và bắt giữ những người họ cho là mối nguy đối với vị thế độc tôn quyền lực của Đảng Cộng sản” (hết trích) (1).

Nhân quyền, nói nôm na là quyền con người, đây là những quyền cơ bản, tự nhiên và phổ quát mà mọi người đều có, không phụ thuộc vào quốc tịch, giới tính, dân tộc hay bất kỳ địa vị nào khác. Chúng bao gồm quyền sống, tự do, bình đẳng, phẩm giá, các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá được pháp luật quốc tế và quốc gia công nhận, bảo vệ và thực thi.

Tại Việt Nam, quyền được sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (được ghi nhận tại Điều 3 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948) luôn được xem là quyền cơ bản nhất. Hiến pháp năm 2013, tại Điều 14 và Điều 20, đã khẳng định quyền con người chỉ bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia; đồng thời mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.

Xét trên bình diện chung, nếu một công dân bình thường, tức không có bất kỳ vấn đề gì xảy ra với công dân đó, những quyền cơ bản của con người gần như được đảm bảo. Tuy nhiên, nếu như có vấn đề cần giải quyết, thì liệu rằng mọi quyền cơ bản vẫn còn được đảm bảo? 

Đơn cử ví dụ, quyền được biết của công dân là quyền cơ bản của mỗi người, nhất là công dân đó lại là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Thế nhưng, thực tế trong quá khứ cũng còn đó trường hợp, khi giải quyết, công dân được nghiễm nhiên bỏ qua, không biết vụ việc đã được mở ra cũng như đã được tiến hành; để rồi được mời lên ký vào một tờ giấy vắng mặt khi mọi thứ đã xong xuôi.

Đó là chưa kể đến, ở Việt Nam cũng tồn tại hai gọng kìm khiến không ít người e dè, đó là Điều 117 BLHS 2015 (sửa đổi 2017) nói về tội làm, tàng trữ, phát tán thông tin chống Nhà nước, còn Điều 331 BLHS nói về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân; cả hai đều được sử dụng để xử lý các hành vi bị coi là chống đối, tạo ra nhiều tranh luận về việc áp dụng pháp luật và bảo vệ quyền tự do. Nhẹ thì phạt hành chính với con số 7 triệu rưỡi, nặng thì sẽ đối diện với mức án giam.

Báo chí – cơ quan được xem như là tiếng nói của người dân; một số những người dân bị áp bức, bất công sẽ tìm đến phòng bạn đọc để “gõ cửa”, trình bày sự việc cũng như tâm tư, nguyện vọng của mình. Và rồi bằng sức mạnh của truyền thông, được pháp luật bảo hộ, báo chí xuống tận nơi để tìm hiểu, điều tra, lên tiếng lấy lại công bằng của người dân – từ quy hoạch báo chí cho đến công cuộc “sắp xếp lại giang sơn”, tiếng nói báo chí vốn dĩ đã thu hẹp giờ đây lại càng hẹp hơn.

Đó là chưa kể đến, luôn có một bộ phận sẵn sàng bắt lỗi, nhằm phạt vi phạm của báo chí, từ phạt tiền cho đến tạm đóng cửa trong một khoảng thời gian nhất định. Không những thế, với những trang web không có giấy phép báo chí mà đăng bài viết có nội dung mang “hơi thở” của báo chí, là cũng chịu chung số phận bị phạt. Một số cây bút phản biện ôn hoà, mang tính xây dựng như trường hợp ông Phạm Chí Dũng thì bị kết án “có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, bịa đặt, xâm phạm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Tóm lại, bức tranh nhân quyền ở Việt Nam, nếu được nhìn tổng quan, mọi thứ có vẻ ổn nhưng nếu đi sâu hơn vào từng trường hợp cụ thể, nhiều thứ, dường như, còn cần phải xem xét lại.

Lynn Huỳnh

__________________

Tham khảo:

Nhận xét

Bài được quan tâm