Phiếm Luận Chữ Đồ
Phiếm Luận Chữ Đồ
Phóng tác theo ý tưởng của cụ Đồ Gàn
Trong “Phiếm Luận Về Chữ Đồ” của cụ Đồ Gàn, theo cụ, trong tiếng Việt không có chữ nào có nhiều nghĩa và nhiều ứng dụng bằng chữ “Đồ”. Chữ này chiếm một địa bàn rộng lớn vì nó được dùng để chỉ tất cả những dụng cụ tiện nghi mà con người sáng tạo ra để đáp ứng đời sống vật chất cho chính mình.
Ví dụ như:
Cái bàn, cái tủ, cái giường, cái ghế là… đồ đạc trong nhà.
Cái cày, cái cuốc, cái xẻng là… đồ làm vườn, làm ruộng.
Cây súng, lưỡi gươm, cung nỏ là… đồ binh khí.
Con búp bê, trái banh, cỗ bài là… đồ chơi.
Cụ Đồ Gàn còn cho rằng, ngay đến những giai đoạn văn minh loài người cũng được mệnh danh qua chất liệu của đồ dùng chẳng hạn thời đại đồ đá, đồ đồng.
Sở thích con người cũng đa dạng qua các món đồ: đồ sứ, đồ vàng, đồ cổ... thậm chí sưu tầm cả đồ phế thải.
Ý nghĩa chữ đồ, không giới hạn ở thiết bị, ẩm thực hay nói chung vật dụng vô tri mà còn tiến lên bình diện con người. Người mổ heo thì gọi đồ tể, kẻ dạy học thì gọi thầy đồ, ông đồ hay cụ đồ. Tuy nhiên khi dùng chữ đồ nói về con người, thường hàm ý xấu. Không ai nói đồ tử tế, đồ thánh hiền, đồ đạo đức, đồ quân tử, đồ tốt bụng, đồ hiền lương hay đồ thủy chung mà chỉ nghe khi chửi nhau, thiên hạ ong óng lên, mày là đồ ba que, đồ xỏ lá, đồ sở khanh, đồ quạ mổ, đồ mất dạy, đồ khốn nạn, đồ lưu manh, đồ tiểu nhân, đồ chó đẻ, đồ dị hợm, đồ đểu cáng, đồ ba nhe, đồ mất nết, đồ mọi rợ, đồ phải gió, đồ nham nhở, đồ thối tha, đồ ăn cướp, đồ trộm cắp, đồ bê bối, đồ phản động, đồ phản quốc, đồ ác ôn, đồ nhỏ nhen, đồ bần tiện, đồ bủn xỉn, đồ bất nhân, đồ bất hiếu, đồ bất nghĩa, đồ hết thuốc chữa, đồ… đồ… đồ…
Trời đất! Sao trong văn học Việt Nam lắm câu chửi thế. Hèn gì, lời tốt lành dành cho nhau thì quá khan hiếm nên khiến đất nước ta chiến tranh, đau khổ triền miên. Lời thị phi nhân ngãi cũng phát sinh tràn lan đến nỗi nhà văn Võ Hồng đã thốt lên:
“Thiên hạ luôn bủn xỉn lời khen mà hào phóng lời chê bai, chỉ
trích...”
Hà!
* Khi đã học hết mọi thứ, những học trò giỏi trưởng thành có ý chí
vươn lên trong quá trình học tập thường vạch ra cho mình những đồ án để
thực hiện làm nên cơ đồ vẽ vang. Nhưng để ám chỉ những học trò hư hỏng,
luôn có những ý đồ, mưu đồ không tốt, đã không làm nên trò trống gì cả
còn phản thầy thì người đời gọi là đồ nghịch tử hay loạn đồ.
Thầy đồ
Thầy Đồ là người tài bộ.
Quẩy cầm thư sang giáo thọ phủ Vĩnh Tường.
Trước nha môn thiết lập học đường.
Trò dăm đứa “chi, hồ, dã, giả...
Một hôm thầy Đồ nhàn hạ.
Đồ ra hồ xem ả hái hoa.
Ả hớ hênh ả để đồ ra.
Đồ thấy đồ ngâm nga tức khắc.
Xuân tiền lạn mạn hoa sinh sắc.
Thủy diện vi mang bạng thổ thần.
Đồ ngâm rồi, đồ đứng tần ngần.
Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc.
Đêm năm canh Đồ nằm khôn nhắp.
Những mơ màng Đồ nọ tưởng đồ kia.
Đồ ơi, gặp gỡ làm chi!
(Khuyết danh)
Chúng ta hình dung được phần nào về chiếc váy rất thuận lợi với khí hậu nóng bức vùng nhiệt đới và sinh hoạt đồng án, trồng lúa, tát nước nhưng vô cùng hấp dẫn khiêu gợi (nếu hớ hênh) cách trang phục của phụ nữ Việt Nam thời xưa đơn giản chỉ bằng mảnh vải quấn thân hoặc khâu kín thành ống mà trong dân gian đã ví von với niềm tự hào, hãnh diện về bản sắc văn hóa của dân tộc:
Cái ống mà thủng hai đầu.
Bên ta thì có bên Tàu thì không.
Một Đoàn Thị Điểm giả cô hàng nước đón tiếp sứ Tàu, đã dùng tài
năng văn học đối đáp bén nhạy khi sứ Tàu đọc câu:
*(An Nam một tấc đất không biết bao nhiêu người cày) có ý xấc xược,chòng ghẹo. Bằng lời lẽ nghiêm trang, tác phong lịch sự, bà đáp ngay *rằng:*
Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất.*
*(Các đại phu nước Tàu cũng từ chỗ đó mà ra) đã khiến bọn ỷ thế phương Bắc khâm phục nước ta về mọi phương diện.
Ông Nghè Tháng Tám
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè chứ kém ai?
Mảnh giấy làm nên khoa giáp bảng.
Nét son điểm rõ mặt anh tài.
Tấm thân xiêm áo coi mà nhẹ.
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe.
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Nhìn chung, những kinh nghiệm đau thương đó, mãi đến nay vẫn chưa thức tỉnh được mọi người luôn luôn đắm chìm trong đau khổ, hết bị dày xéo bởi Tàu, Tây, Nhật, nay còn quằn quại dưới ách thống trị của cộng sản. Một lần nữa, chúng ta không quên được những biến cố xảy ra tại miền Bắc vào thập niên 50 đã phá hủy mọi truyền thống văn hóa dân tộc khi cộng sản du nhập lối sinh hoạt nhảy múa loạn cào cào “**son, đố, mì**” từ quan thầy Mao Trạch Đông lôi kéo thanh thiếu niên thoát ly khỏi hệ thống nề nếp gia đình đã khiến vô số chị em phụ nữ là nạn nhân của những vụ chửa hoang rồi tự tử để lại trong nhân gian những câu chửi rủa chế độ:
Đồ mi là đồ phá đồ!
(Nhại theo nốt nhạc của điệu nhảy múa trên). Hoặc:
Người ta vì nước vì non.
Cô ta lại chết vì “son, đố, mì.”
Thêm vào đó, gần đây nhất, biến cố 30.4.75, cộng sản thôn tính miền Nam đưa cả nước vào thảm trạng nghèo đói. Người dân thắt lưng buộc bụng chỉ trông ngóng vào những thùng quà từ nước ngoài do thân nhân vượt biên gởi về. Trong giai đoạn nghiệt ngã của chính trị và kinh tế như vậy, những bài ca dao phát xuất từ văn chương bình dân là bằng chứng hùng hồn nhất để tố cáo chế độ, một sự phản kháng âm thầm nhưng mạnh mẽ, đã in sâu, truyền bá rộng rãi trong tâm khảm của mọi người. Mới nghe qua, tưởng là những bài tiếu lâm thông thường, nhưng nếu đọc kỹ, xét kỹ ta mới thấy được thảm trạng đắng cay cười ra nước mắt của thời đại:
Đi chơi cho biết Đồ Sơn.
Đi rồi mới biết không hơn đồ nhà.
Đồ nhà tuy có hơi già.
Nhưng là đồ thật hơn là Đồ Sơn!
(“Đồ Sơn” là một thắng cảnh ở miền Bắc)
Thôi, xin phép các bạn được ngừng tại đây.
MẠC VĂN TÍN
Nhận xét
Đăng nhận xét