ĐỂ THẮNG ĐƯỢC TRUNG CỘNG
ĐỂ THẮNG ĐƯỢC TRUNG CỘNG
Tác giả: TRẦN TRUNG ĐẠO
Câu nói “Không có đế quốc nào tồn tại mãi mãi” thoạt nghe rất bình thường và hiển nhiên vì lẽ đơn giản trên đời này không có gì tồn tại mãi mãi, tuy nhiên quy luật đó đã được chứng minh rất nhiều lần trong lịch sử bằng bao máu xương của nhân loại. Một đế quốc vừa hình thành ở Á Châu và đang đe dọa cho hòa bình thế giới: Đế quốc Trung Cộng. Đế quốc này sẽ tồn tại thêm được bao lâu và sẽ sụp đổ bằng cách nào vẫn còn là chủ đề được các nhà phân tích chính trị, các sử gia bàn cãi không chỉ bên ngoài Trung Cộng mà ngay tại đầu não của cơ chế độc tài.
Trung Cộng tồn tại được bao lâu?
Trên cả nước Trung Cộng có một nơi duy nhất được quyền phê bình đảng CS
và một nhóm người rất nhỏ trong số hơn một tỉ dân được trao đặc quyền tự do
tranh luận về ngày tàn của đảng CS mà không sợ trả thù, nơi đó là Trường Đảng
Trung Ương trực thuộc Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSTQ và nhóm người đó là
những cán bộ lý luận cao cấp của trường. Trong một biệt điện hoàng gia cũ ở
phía tây Bắc Kinh được đổi thành Trường Đảng, một số nhỏ chuyên gia ưu tú nhất
của trường dành trọn thời gian chỉ để làm một việc là phân tích mọi sai lầm của
lãnh đạo đảng, mọi chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng, mọi kế hoạch
kinh tế, các chính sách đối nội và đối ngoại của đảng.
Và câu hỏi chính được đặt ra cho nhóm người có đặc quyền này “Đảng CS sẽ
tồn tại bao lâu và những khả năng nào xảy ra sau khi đảng sụp đổ.”
Dĩ nhiên mục đích tranh luận không phải để lật đổ chế độ mà nhằm tìm các
biện pháp thích nghi ngăn chận kịp thời mọi sai lầm, sơ sót để cỗ máy độc tài
khỏi rơi xuống hố như trường hợp Liên Xô.
Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về tương lai Trung Cộng.
Một quan điểm của đảng CSTQ cho rằng Trung Cộng là một nước có biệt lệ
về văn hóa chính trị nên làn sóng cách mạng dân chủ tại châu Âu trước đây cũng
như Bắc Phi vừa qua không đập vào bờ Trung Cộng. Một quan điểm khác gồm những
học giả chuyên về Trung Cộng, trí thức Trung Quốc có ảnh hưởng và ngay cả một
số viên chức CS cao cấp có khuynh hướng tự do cho rằng đảng CS phải chết nhưng
vấn đề là chết bằng cách nào mà thôi. Điều đó cũng cho thấy, nỗi lo sợ một ngày
cơ chế độc tài CSTQ sẽ sụp đổ ám ảnh thường xuyên trong suy nghĩ của lãnh đạo
CSTQ và hai yếu tố lớn nhất dẫn đến sự sụp đổ của Trung Cộng vẫn là chính trị
và kinh tế.
Về chính trị.
Bài học Thiên An Môn cho lãnh đạo Trung Cộng biết nguy cơ
hàng đầu vẫn là khát vọng tự do của con người. Dân chủ là hướng đi của thời
đại. Năm 1901 mở đầu cho thế kỷ 20 trên thế giới chỉ có 12 phần trăm nhân loại
sống trong các cơ chế chính trị được gọi là dân chủ. Đầu thế kỷ 21, 120 trong
số 192 quốc gia được quốc tế công nhận là những nước được lãnh đạo bởi các
chính phủ do dân bầu. Nhiều lãnh đạo CSTQ đổ lỗi sự sụp đổ của Liên Xô lên đầu
Mikhail Gorbachev như Giáo sư Shen Zhihua, chuyên viên về Liên Xô của Đại học
Thanh Hoa và cả cựu Chủ Tịch Trung Cộng Giang Trạch Dân từng phát biểu
“Gorbachev phản bội cách mạng.” Tuy nhiên họ cố tình không quan sát đến tiến
trình chuyển hóa không ngừng của xã hội con người.
Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh quốc, trong tác phẩm Sự
vươn lên và sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản (The Rise And Fall Of Communism) nêu
ra 8 lý do khiến chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trong đó lý do hàng đầu không phải
là kinh tế hay quân sự mà là sự thay đổi xã hội.
Sự chuyển hóa tri thức nhanh hay chậm tùy theo điều kiện mỗi nước nhưng
là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào.
Những nguồn đối kháng từ bên trong các nước CS đã âm thầm lớn mạnh chỉ
chờ cơ hội là bùng vỡ như được chứng minh qua việc 300 ngàn thanh niên Đông Đức
tham dự buổi nhạc hội của Bruce Springsteen vào ngày 19 tháng Bảy 1988 và hàng
ngàn thanh niên Đông Đức hô to khẩu hiệu tự do muôn năm trên bờ tường Bá Linh
tối ngày 9 tháng 11 năm 1989.
Sức sống của đất nước cũng như của xã hội là một dòng chảy không bao giờ
ngừng nghỉ, các thế lực cầm quyền độc tài chỉ là những khe đá, có thể làm chậm
dòng thác văn minh nhưng không thể nào ngăn chận được. Tóm lại, yếu tố chính
tác động vào sự sụp đổ của Liên Xô, hệ thống CS tại châu Âu và sẽ diễn ra tại
Trung Cộng cũng như Việt Nam chính là nội lực phát xuất từ xã hội, kết quả của
các phong trào xã hội và sự chuyển hóa không ngừng của xã hội.
Về mặt kinh tế xã hội.
Như lịch sử đã chứng minh sự phát triển của giai
cấp trung lưu là nguồn thúc đẩy của cách mạng dân chủ vì đó là giai cấp có học
thức, có phương tiện và có nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần cần được
thỏa mãn. Cách đây 20 năm, giai cấp trung lưu này không hiện hữu nhưng nay là
một lực lượng đông đảo và phát triển theo lũy thừa. Thành phần trung lưu chiếm
14 phần trăm dân số thành thị tại Trung Cộng và có lợi tức bình quân từ 17 ngàn
Mỹ kim đến 37 ngàn Mỹ kim một năm. Với hướng phát triển xã hội có tính quy luật
đó, theo giáo sư David Shambaugh, giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc
thuộc Đại học George Washington, sự suy thoái của đảng CSTQ đang diễn ra sẽ
giống như các triều đại Trung Hoa trước đây, chiếm đoạt, hưng thịnh và sụp đổ.
Trong một tổng kết mới đây The World Bank's International Comparison
Program cho rằng Trung Cộng với GDP 2011 là 13.5 ngàn tỉ Mỹ kim, sẽ qua mặt Mỹ
nhanh hơn dự đoán. Thống kê này dựa trên việc so sánh sức mua tương đương
(purchasing power parity) của hàng hóa giữa hai quốc gia. Tuy nhiên nhiều nhà
kinh tế không đồng ý vì không thể dùng giá cả của những ổ bánh mì, bao thuốc lá
để làm thước đo cho mức độ giàu nghèo giữa hai nước trong lúc những món hàng
quan trọng nhất lại không thể mua tại Trung Cộng.
Tom Wright của The Wall Street Journal ví dụ một cách chính xác và cụ
thể, Trung Cộng không thể mua một chiếc tàu, một giàn hỏa tiễn hay một chiếc xe
Đức đắt tiền mà phải trả bằng một giá hối suất cao gấp nhiều lần. Nếu tính trên
phạm vi cả nước, theo phân tích của Global Public Square, Trung Cộng không đứng
nhất, nhì hay thậm chí 30 mà đứng sau cả Peru.
Nhưng dù phát triển kinh tế nhanh, sự phát triển đó vẫn phải đồng bộ với
các phát triển chính trị, văn hóa để tạo nên một xã hội thịnh vượng hài hòa.
Điều đó không tồn tại tại Trung Cộng.
Các thành tựu kinh tế của Trung Cộng được đổi bằng sự chịu đựng, hy
sinh, mồ hôi, xương máu của nhiều dân tộc khác và ngay tại Trung Cộng hàng trăm
triệu dân thiểu số vẫn phải tiếp tục sống trong xã hội tham nhũng, độc tài,
nghèo đói, bất công, bạc đãi.
Hai nhà lý luận CS Lin Zhe và Chen Shu, thành viên trong nhóm nhỏ của
trường đảng có đặc quyền phê phán, mặc dù tin rằng đảng CSTQ sẽ tồn tại lâu
cũng thừa nhận tham nhũng kinh tế có thể làm sụp đổ đảng. Bà Lin Zhe dành 20
năm để nghiên cứu phương pháp diệt tham nhũng tại các cấp đảng vì theo bà “Tham
nhũng là mối đe dọa nguy hiểm có thể dẫn đến sự sụp đổ của đảng và nhà nước.”
Ngọn núi lửa Trung Cộng
Tuyệt đại đa số con người không ai muốn chiến tranh và là người Việt Nam
lại càng không muốn có chiến tranh. Tuy nhiên, chiến tranh và hòa bình không
phải là chuyện muốn hay không muốn mà đó là hai mặt biện chứng nhân quả của một
quá trình mang tính lập lại của phát triển xã hội loài người.
Sau khi hiệp ước Versailles được ký kết, Thống chế Pháp Ferdinand Foch
nhận xét “Đây không phải là hòa bình mà chỉ là cuộc đình chiến hai mươi năm.”
Thế Chiến thứ Hai bùng nổ 20 năm và 65 ngày sau đó. Nhận xét của danh tướng
Ferdinand Foch không phải là lời tiên đoán của các ông thầy bói nhưng vì các
nguyên nhân kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội dẫn đến Thế Chiến thứ Nhất
chẳng những không giải quyết mà còn tác động vào nhau để tạo thành nguyên nhân
cho Thế Chiến thứ Hai đẫm máu hơn. Tương tự, Trung Cộng với chính sách cực đoan
về cả đối nội lẫn đối ngoại đang là mầm mống cho một chiến tranh khốc liệt tại
Á Châu.
Đảng Cách Mạng Thể Chế Mexico (Mexico’s Institutional Revolutionary
Party) cầm quyền được 71 năm và chế độ độc tài CS Liên Xô tồn tại được 74 năm
nhưng cả hai đều đã mất quyền lãnh đạo. Trung Cộng tồn tại đến nay được 65 năm
nhưng liệu sẽ thoát ra ngoài sự chi phối của quy luật “không có đế quốc nào tồn
tại mãi” hay không. Câu trả lời dĩ nhiên là không. Một khi ngọn lửa chủ nghĩa
dân tộc cực đoan Đại Hán như dòng nham thạch đang cuồn cuộn sôi trong lòng núi,
khả năng chuyển hóa từ độc tài sang dân chủ một cách hòa bình tại Trung Cộng là
một chuyện khó xảy ra.
Với các mâu thuẫn bên trong và thù địch bên ngoài vô cùng sâu sắc, không
có cách mạng nhung, cách mạng da cam nào mà chỉ có máu chảy ngập đường phố Bắc
Kinh, Thượng Hải và các vùng Tân Cương, Ninh Hạ, Nội Mông, Tây Tạng. Việt Nam
với quan hệ hữu cơ về chính trị tư tưởng và với vị trí chiến lược trong vùng
biển Đông cũng khó thoát khỏi ảnh hưởng đầy tai họa của cách mạng máu.
Giáo sư Yuan-kang Wang thuộc đại học Western Michigan viết trong tạp chí
Foreign Policy “Nếu quyền lực tiếp tục gia tăng, Trung Quốc sẽ mở rộng ảnh
hưởng đến vùng Đông Á. Chính sách này sẽ không tránh khỏi tạo nên sự cạnh tranh
an ninh với Mỹ trong khu vực và các vùng chung quanh. Washington đang bước ra
khỏi mối bận tâm Iraq và Afghanistan và đang là ‘mấu chốt’ hướng tới Á Châu.
Như người Trung Quốc thường nói ‘Một rừng không thể có hai cọp’, nhớ ráng hết
sức mình, trò chơi còn tiếp tục.”
Ngọn núi lửa Trung Cộng sẽ phát nổ tuy chưa biết chính xác ngày nào.
Bài học cho Việt Nam
Lịch sử để lại nhiều bài học về chính sách đối ngoại khôn ngoan, nhưng
đáng học nhất vẫn là bài học về cách giải quyết xung đột giữa Thổ Nhĩ Kỳ và
Liên Xô.
Từ khi thành lập nền cộng hòa Thổ năm 1923, Thổ Nhĩ Kỳ là một nước cô
đơn. Chiến tranh với Anh vừa chấm dứt bằng chiến thắng nhưng bị các quốc gia
dân chủ Tây Phương cô lập. Quân đội không nhỏ nhưng chỉ được trang bị võ khí
còn lại từ thời đế quốc Ottoman và Thế Chiến thứ Nhất. Để được an toàn, chính
phủ Thổ kết thân với một anh láng giềng bên kia Hắc Hải cũng đang bị cô lập, đó
là Liên Xô. Cuối thập niên 1930, khi Đức Quốc Xã trở thành mối đe dọa, Stalin
quyết định phải kiểm soát Eo Biển Thổ Nhĩ Kỳ để ngăn chận các chiến hạm các
quốc gia không thuộc vùng Hắc Hải di chuyển qua đó và đề nghị Thổ cùng phối hợp
để làm việc này.
Thổ từ chối sang nhượng chủ quyền Eo Biển. Stalin khó chịu nhưng vẫn
phải tiếp tục duy trì quan hệ hữu nghị với Thổ. Khi Thổ nhích gần tới Anh và
Pháp qua việc tham gia Balkan Pact 1934 và Saadabad Pact 1937 do khối Tây
Phương chủ trương, Liên Xô công khai bày tỏ quan điểm gọi là “khó hiểu khi Thổ
lại thương thảo với những kẻ cựu thù.”
Trước tham vọng xâm lược ngày càng lộ liễu của Liên Xô, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ
còn một con đường duy nhất là đứng hẳn về phía Tây Phương. Tuy nhiên, muốn thân
các quốc gia dân chủ Tây Phương, trước hết giới lãnh đạo Thổ phải tiến hành các
cải tổ chính trị. Tổng thống Mustafa İsmet Inonu, người tiếp tục chính sách của
cố tổng thống Mustafa Kemal Ataturk mở rộng chính phủ theo hình thức đa đảng.
Hoa Kỳ đánh giá thiện chí của Thổ qua các cải cách chính trị và cũng thấy cần
phải tích cực ngăn chận ảnh hưởng Liên Xô trên vùng Hắc Hải, đã gởi chiến hạm
lừng danh USS Missouri đến Istanbul vào tháng Tư 1946. Thiết giáp hạm USS
Missouri là niềm kiêu hãnh của hải quân Mỹ, từng tham dự hai trận Iwo Jima và
Okinawa, và cũng là nơi Hoa Kỳ nhận sự đầu hàng của Nhật. Anh theo bước Mỹ,
cùng tham gia cuộc diễn tập quân sự trong vùng biển Aegean tháng Chín 1946. Báo
chí Liên Xô lên án Mỹ, Anh và cho rằng hai nước này đang thiết lập căn cứ quân
sự trong vùng Eo Biển Thổ Nhĩ Kỳ.
Hoa Kỳ không thừa nhận nhưng cả thế giới lúc đó đều biết Mỹ quyết tâm
bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ. Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ từ một nước tách ra khỏi một đế quốc tan
rã, giành độc lập bằng xương máu chống lại khối dân chủ Tây Phương, bị cô lập,
trung lập trong Thế Chiến thứ Hai nhưng đã khôn khéo từng bước xích lại gần với
những kẻ cựu thù và cuối cùng được trở thành hội viên của NATO.
Để biết ơn và cổ võ các giá trị dân chủ, mỗi năm chính phủ Thổ dành một
ngân sách lớn để viện trợ cho các đề án nhằm cải cách dân chủ khắp thế giới.
Năm 2012, Thổ Nhĩ Kỳ viện trợ 3.4 tỉ Mỹ kim cho 121 quốc gia. Thổ cũng dành
riêng 1 tỉ Mỹ kim trong ngân sách để viện trợ nhân đạo và được xếp vào hàng thứ
tư trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, Cộng đồng Châu Âu và Anh Quốc.
Để thắng được Trung Cộng
Qua xung đột giữa Liên Xô và Thổ Nhĩ Kỳ chúng ta có thể rút ra bốn điều
kiện để thoát ra khỏi sự khống chế và sẽ thắng được Trung Cộng trong trận cuối
cùng:
1. Việt Nam phải có dân chủ trước Trung Cộng.
Phần đông các nhà phân tích chính trị Việt Nam đồng ý rằng Việt Nam phải
có dân chủ mới bảo vệ được đất nước. Điều đó đúng nhưng cần phải nói thêm, dân
chủ không chỉ giúp bảo vệ đất nước mà còn để thắng được Trung Cộng. Ngoài ra,
dân chủ phải đến sớm, đừng đợi đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây
phơi mới đến. Chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ mới thật sự tập
trung được sức mạnh tổng hợp của dân tộc và là nền tảng cho một quốc gia dân
chủ thịnh vượng lâu dài.
Trung Cộng không sợ USS George Washington hay bom nguyên tử mà sợ dân
chủ và rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Vũ khí dân chủ sẽ gây
một phản ứng dây chuyền dẫn tới sự tan vỡ toàn bộ cơ chế CS. Một Trung Cộng
mênh mông có nguy cơ tan thành nhiều mảnh, chủ quyền ngay tại lục địa còn không
giữ được nói chi là chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa, Trường Sa xa xôi.
2. Đoàn kết dân tộc.
Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại nhằm tạo sự tin
cậy nơi các nước dân chủ Tây Phương nhưng quan trọng nhất là nền tảng của đoàn
kết dân tộc. Một dân tộc chia rẽ không thắng được ai. Đây là thời điểm để xác
định lại lòng yêu nước. Yêu nước ngày nay không phải là sản phẩm của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan hay bùa mê CS mà gắn liền với với quyền lợi sống còn của đất
nước và hướng đi dân chủ nhân bản của thời đại.
Trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Iraq, nhiều người nghĩ kẻ có lợi nhiều
nhất sẽ là dân tộc Kurds. Nhưng không, họ là những người chịu đựng thiệt thòi
nhiều nhất. Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam Hussein tàn sát
không thương tiếc các cuộc nổi dậy của nhân dân Kurds ly khai trước sự làm ngơ
của Mỹ. Nhiều nhà phân tích cho rằng Mỹ phản bội lý tưởng độc lập của nhân dân
Kurds. Điều đó chỉ đúng một nửa. Nửa còn lại là sự phân liệt vô cùng trầm trọng
trong tập thể 35 triệu người Kurds sống trong nhiều quốc gia vùng Tây Á.
Một dân tộc chia rẽ, cấu xé nhau, không có một hướng đi chung, không thể
vận dụng được sự ủng hộ từ quốc tế và cũng không xứng đáng để được quốc tế ủng
hộ.
Tương tự, Mỹ bỏ 900 tỉ Mỹ kim hay 3 ngàn tỉ Mỹ kim tùy theo cách tính và
4486 nhân mạng để lật đổ Saddam Hussein, không phải chỉ nhằm đem lại hòa bình
dân chủ cho nhân dân Iraq. Tuy nhiên, nếu là một dân tộc khôn ngoan, đây là cơ
hội giúp Iraq vượt qua những khó khăn trong vài năm nữa trở thành một cường
quốc trong thế giới Ả Rập và nếu họ không làm được thì cũng đừng đổ thừa cho
Mỹ, đổ tội cho Saddam Hussein mà phải trách ở chính mình.
3. Chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia.
Việt Nam chỉ trở thành một vị trí chiến lược sau khi Trung Cộng thôn
tính toàn lục địa Trung Hoa 1949 nhưng trước đó thì không.
Tương tự, Ai Cập trước 1976 không quan trọng hơn Thổ Nhĩ Kỳ hay Iran
nhưng sau khi Tổng thống Anwar Sadat bỏ đồng minh Liên Xô để bước sang phía thế
giới tự do, Ai Cập trở nên một đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ ở Trung Đông và
được viện trợ ít nhất 1.5 tỉ Mỹ kim hàng năm từ đó đến nay.
Vì lợi ích kinh tế cũng như về các giá trị nhân quyền, Hoa Kỳ mong muốn
được thấy Trung Cộng trở thành một quốc gia dân chủ trong một châu Á và Thái
Bình Dương ổn định. Trung Cộng là nhà băng của nhiều quốc gia trên thế giới kể
cả Mỹ, nhưng không giống như các công ty tài chánh Lehman Brothers hay Merrill
Lynch, khủng hoảng chính trị tại Trung Cộng sẽ gây tác hại vô cùng trầm trọng
đối với nền kinh tế thế giới không thể đo lường được.
Biết chủ động chiến lược hóa, quốc tế hóa, quan trọng hóa vị trí của
quốc gia cũng như biết khai thác mối lo của cường quốc sẽ làm cho vị trí của
quốc gia quan trọng hơn trong tranh chấp quốc tế. Trái lại, chủ trương của lãnh
đạo CSVN “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của
bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và
không dựa vào nước này để chống nước kia” là chủ trương tự cô lập, không đúng
về lý thuyết lẫn thực tế chính trị và sẽ chết tức tưởi trong cô đơn mà không
được ai ngó ngàng.
4. Đoàn kết với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin
cậy
Việt Nam đang đứng trước những ngã ba, ngã năm trong bang giao quốc tế nhưng
dù bao nhiêu ngã cũng chỉ có thể đi trên một con đường trong một thời điểm nhất
định.
Sự liên minh khôn khéo trong nhiều trường hợp giúp quốc gia tránh được
chiến tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh. Giáo sư Alastair
Smith thuộc đại học Washington University đã công thức hóa toán học nhiều mô
thức liên minh trong lịch sử bang giao quốc tế và kết luận các quốc gia có
những liên minh không đáng tin cậy sẽ dễ bị tấn công hơn là các quốc gia có sự
liên minh tin cậy.
Hiện nay tại Á Châu có bốn liên minh quân sự gồm ba liên minh tin cậy
Mỹ-Nhật, Mỹ-Phi, Mỹ-Nam Hàn và liên minh SCO về biên giới gồm Trung Cộng,
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nga, Tajikistan và Uzbekistan. Khi chảo dầu Á châu được
đun nóng hơn, nhiều liên minh quân sự mới tương tự như Tổ chức Liên phòng Đông
Nam Á (SEATO) trong thời chiến tranh Việt Nam sẽ ra đời. Đối với Hoa Kỳ, vùng
biển Đông Á là huyết mạch kinh tế lẫn an ninh của các nước đồng minh với Hoa Kỳ
như Nhật Bản, Nam Hàn, Philippines, Indonesia, liên minh được với Hoa Kỳ vừa có
thể thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa đất nước vừa bảo đảm an ninh.
Bốn điều kiện để thắng được Trung Cộng chỉ có thể thực hiện nếu lãnh đạo
là những người thực tâm vì đất nước. Điều đó không có tại Việt Nam.
Rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981 này, lãnh đạo CSVN lại lên đường
sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh
em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi
ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân
Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy.
Dân tộc Việt Nam lại bị đảng dắt đi vòng vòng trong ngõ cụt tối tăm như
đã và đang đi suốt 39 năm qua. Do đó, chọn lựa một lối thoát, một hướng đi cho
đất nước không phải là chọn lựa của lãnh đạo CSVN nhưng 90 triệu người dân Việt
Nam phải can đảm đứng lên quyết định vận mạng chính mình.
GHI CHÚ:
-Chính luận này cũng trong phần Notes cũ của Facebook. Bài hơi dài nhưng quan trọng, cuối tuần mời anh chị em và các cháu dành chút thời giờ đọc.
-Ảnh
"Vòm cung bao vây" Trung Cộng của Geopolitical Intelligence Services.
Trần Trung Đạo
Nhận xét
Đăng nhận xét