Âm Mưu Chiếm Việt Nam Của Trung Quốc Qua Đường Kinh Tế

Âm Mưu Chiếm Việt Nam Của Trung Quốc Qua Đường Kinh Tế
Thuy Trang Nguyen

Trong lúc chính quyền Việt Nam đang say sưa tổ chức rầm rộ lễ kỷ niệm 50 năm ngày 30 tháng 4 với những lễ hội, diễu hành và băng rôn rực rỡ, thì nguy cơ mất nước lại đến từ một hướng khác âm thầm và nguy hiểm hơn. Tại các rạp phim lớn, bộ phim tuyên truyền về địa đạo Củ Chi lại được trình chiếu như một biểu tượng chiến thắng chống Mỹ cứu nước, làm dấy lên trong lớp trẻ niềm tự hào về chiến công xưa mà quên mất rằng, hiểm họa hôm nay không đến từ phương Tây mà đến từ phương Bắc. Trong khi người trẻ mơ về hầm chông và súng AK, thì Trung Quốc đã không cần dùng đến súng mà vẫn từng bước thôn tính Việt Nam bằng tiền, bằng hợp đồng và bằng sự cài cắm có chiến lược qua kinh tế.

Câu chuyện bắt đầu từ một hội nghị kín được tổ chức vào đầu tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Hội nghị này sau đó được biết đến với tên gọi Hội nghị Thành Đô. Đây là thời điểm lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau sau hơn mười năm cắt đứt quan hệ ngoại giao và căng thẳng quân sự kéo dài từ cuộc chiến biên giới năm 1979. Mục đích chính thức của hội nghị là bình thường hóa quan hệ, nhưng những thỏa thuận thực sự ký kết trong phòng họp kín vẫn luôn là một bí ẩn. Nhiều nhà phân tích cho rằng, kể từ thời điểm đó, Trung Quốc đã từng bước thiết lập một chiến lược kiểm soát Việt Nam không bằng quân sự, mà bằng một hình thức mềm hơn nhưng nguy hiểm hơn: thâm nhập và kiểm soát thông qua con đường kinh tế.



Sau Hội nghị Thành Đô, làn sóng đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam bắt đầu gia tăng đều đặn. Trong vài năm gần đây, chiến lược đó càng lộ rõ. Trung Quốc không chỉ đầu tư vào các lĩnh vực như sản xuất, năng lượng, bất động sản, mà còn thực hiện một chiến dịch quy mô lớn nhằm kiểm soát đất đai tại các khu vực nhạy cảm. Bộ Quốc phòng Việt Nam cho biết, tính đến năm 2019, người Trung Quốc đã sử dụng hơn 162.000 ha đất tại các khu vực biên giới và ven biển. Họ thực hiện điều này thông qua hai con đường chính: đầu tư trực tiếp bằng cách thành lập doanh nghiệp liên doanh với người Việt, và gián tiếp thông qua việc cho người Việt gốc Hoa đứng tên mua đất.

Tại thành phố Đà Nẵng, từ năm 2011 đến 2015, đã ghi nhận 134 lô đất có liên quan đến cá nhân hoặc doanh nghiệp Trung Quốc, phần lớn nằm tại các vị trí ven biển, gần sân bay Nước Mặn và các trục giao thông chiến lược. Họ thực hiện điều này bằng cách góp vốn thấp ban đầu, để người Việt đứng tên và điều hành, sau đó từng bước tăng vốn, thâu tóm quyền điều hành và kiểm soát đất đai. Việc này đã gây ra mối lo ngại sâu sắc trong dân chúng và cơ quan quốc phòng, bởi hầu hết các khu đất này đều nằm ở các vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng.

Chiến lược kiểm soát không chỉ dừng lại ở đất đai. Trung Quốc còn đang giữ thế thượng phong về nguồn nước với các quốc gia hạ lưu sông Mekong, trong đó có Việt Nam. Trên dòng chính Mekong, Trung Quốc đã xây dựng ít nhất 11 đập lớn, chưa kể hàng chục đập khác trên các nhánh phụ. Việc tích trữ và điều tiết nước từ các con đập này khiến cho hạ lưu sông Mekong và hệ thống sông Cửu Long, kể cả sông Đồng Nai, thường xuyên khô cạn bất thường. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa và nguồn sống của hàng triệu người dân miền Nam, đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do dòng chảy thay đổi và hiện tượng xâm nhập mặn gia tăng. Đây là một hình thức kiểm soát tài nguyên kiểu mới, không cần nổ súng nhưng vẫn khiến một quốc gia trở nên phụ thuộc và suy yếu.

Không dừng lại ở đó, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược như đất hiếm, năng lượng tái tạo, điện tử và hạ tầng kết nối. Trong năm 2025, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký mới chiếm hơn ba mươi phần trăm tổng vốn FDI của cả nước. Các tập đoàn lớn như China Tianying, Power China, BYD, và đặc biệt là Tập đoàn Đất hiếm Trung Quốc, đã có mặt tại nhiều địa phương để xúc tiến các dự án có quy mô hàng tỉ đô la. Dư luận không thể không lo ngại khi những ngành nghề mà Trung Quốc chọn đầu tư đều là những lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng lượng, tài nguyên và định hướng phát triển công nghiệp lâu dài của đất nước.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung Quốc sử dụng chiến lược thu mua nông sản theo mùa để tạo ra sự phụ thuộc. Họ thường thu mua nông sản Việt Nam với giá cao vào một giai đoạn ngắn, tạo cảm giác thị trường ổn định, rồi bất ngờ ngưng nhập khẩu khiến hàng hóa ùn ứ, giá rớt mạnh. Việc này tái diễn nhiều năm qua khiến nhiều nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp Việt Nam không còn lối ra thị trường, lệ thuộc hoàn toàn vào quyết định của thương lái Trung Quốc. Đặc biệt, các mặt hàng như thanh long, dưa hấu, sầu riêng, chuối và cao su bị tác động nặng nề. Đây là một hình thức kiểm soát không cần chiếm đất mà vẫn bóp nghẹt được chuỗi cung ứng nội địa.

Không chỉ nông nghiệp, Trung Quốc còn chi phối ngành ngư nghiệp Việt Nam thông qua việc gia tăng hiện diện trên Biển Đông, chặn bắt tàu cá, xua đuổi ngư dân Việt Nam tại các ngư trường truyền thống như Trường Sa và Hoàng Sa. Các tàu hải cảnh Trung Quốc thường xuyên áp sát, xua đuổi, thậm chí đâm chìm tàu cá Việt Nam, khiến ngư dân e ngại ra khơi. Việc này không chỉ ảnh hưởng đến sinh kế hàng chục ngàn người dân miền biển mà còn khiến Việt Nam từng bước mất quyền kiểm soát thực tế trên biển của chính mình.

Một mối đe dọa khác đến từ việc Trung Quốc nhận thầu xây dựng các nhà máy điện tại Việt Nam. Nhiều nhà máy nhiệt điện than, thủy điện, thậm chí các dự án điện hạt nhân đều có sự hiện diện của nhà thầu Trung Quốc. Các nhà máy này thường sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Điển hình là vụ nhà máy Formosa Hà Tĩnh gây ra thảm họa môi trường biển miền Trung năm 2016, khiến hàng trăm ngàn người mất sinh kế và môi trường bị hủy hoại suốt nhiều năm. Đó là một bài học nhãn tiền về hậu quả của việc chọn sai đối tác chiến lược, khi lợi nhuận và chi phí được đặt trên sức khỏe của cả một dân tộc.

Điều đáng báo động hơn là những đầu tư này thường đi kèm với các hành vi vi phạm pháp luật như sử dụng lao động trái phép, trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường và thậm chí liên quan đến sản xuất ma túy công nghệ cao. Tại các địa phương như Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Phú Yên và Kon Tum, nhiều vụ việc đã được phát hiện và xử lý. Theo Bộ Quốc phòng, nhiều lao động Trung Quốc không khai báo cư trú, không có giấy phép làm việc, thậm chí tuyển dụng trái phép và xảy ra xô xát với công nhân Việt Nam. Có trường hợp kết hôn trái phép để hợp thức hóa việc lưu trú dài hạn.

Từ sau làn sóng phản đối mạnh mẽ Luật Đặc khu vào năm 2018, trong đó có điều khoản cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê đất lên đến 99 năm, tinh thần cảnh giác trong nhân dân đã được nâng cao. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn đang từng bước thực hiện kế hoạch lâu dài, với những bước đi chậm rãi nhưng có tính toán kỹ lưỡng. Trong khi dư luận xã hội tạm lắng, thì các dự án có yếu tố Trung Quốc vẫn đang âm thầm diễn ra ở khắp nơi, từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng ven biển miền Trung và miền Nam.

Một khía cạnh khác không thể không nhắc tới là sự hiện diện ngày càng rõ rệt của các mạng lưới tình báo Hoa Nam trong lòng bộ máy hành chính và cơ sở hạ tầng nhà nước Việt Nam. Không chỉ là kinh tế, Trung Quốc còn tìm cách cài cắm người vào các cơ quan ban ngành, từ cấp địa phương đến trung ương, thông qua hình thức học bổng, giao lưu học thuật, hợp tác kỹ thuật hoặc thậm chí tuyển dụng trá hình qua các tổ chức phi chính phủ. Những hoạt động tưởng chừng mềm mại nhưng lại vô cùng nguy hiểm bởi chúng dần làm mờ ranh giới về chủ quyền và tạo ra ảnh hưởng âm thầm trong quyết sách quốc gia.

Điều này không phải là chuyện mới. Trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, đã từng xảy ra tình trạng nhiều Hoa kiều, kể cả những người đã sinh sống lâu đời ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam, đứng ra chỉ điểm, hướng dẫn đường cho quân Trung Quốc tiến sâu vào làng, phá hủy cơ sở hạ tầng, sát hại dân thường và hỗ trợ bộ binh xâm lược. Bài học lịch sử đau xót ấy vẫn còn đó, như một lời cảnh báo về khả năng bị phản bội từ bên trong nếu lòng tin bị đặt nhầm chỗ. Nếu không có sự cảnh giác đúng mức và cơ chế kiểm soát chặt chẽ, những ảnh hưởng từ bên trong này có thể phá hủy nội lực đất nước trước khi chúng ta kịp nhận ra.

Trung Quốc không cần nổ súng để chiếm Việt Nam. Họ chỉ cần dùng tiền, dùng hợp đồng, dùng các doanh nghiệp trung gian và các điều khoản pháp lý thiếu chặt chẽ. Trong một thế giới mà kinh tế quyết định quyền lực, thì đất đai, tài nguyên và hạ tầng mới là những chiến tuyến thật sự. Nếu không kiểm soát chặt chẽ, Việt Nam có thể một ngày tỉnh dậy và nhận ra rằng phần lớn tài sản chiến lược đã không còn thuộc về mình.

Cảnh báo này không phải để gây hoang mang, mà để kêu gọi sự tỉnh táo. Đã đến lúc phải siết lại các kẽ hở pháp lý, kiểm soát thật nghiêm các dòng vốn ngoại, đặc biệt từ Trung Quốc. Bởi vì nếu chúng ta không tự giữ đất, giữ nước, thì sẽ không ai làm thay được điều đó...!

Bài được quan tâm

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 234

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 235

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 233