Bắc/Nam Giữa Thời Mắc Dịch
Tác giả: TƯỞNG NĂNG TIẾN
Tuy chào đời tại Sài Gòn – trước Hiệp Định Geneve – tôi vẫn có mặt trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam hồi năm 1954. Tuy đây không phải là một “giai thoại” ly kỳ hay thú vị gì sất cả nhưng vẫn xin được phép ghi thêm đôi dòng (cùng dặm thêm chút đỉnh mắm muối) để câu chuyện được tỏ tường, và đỡ phần nhạt nhẽo.
Tác giả Lê Duy San cho biết:
“Ngày 12/7/1946, theo lệnh của Trường Chinh, Việt Minh âm thầm cho công an đột nhập trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng ở số 9 phố Ôn Như Hầu. Hằng trăm người bị giết bằng cách trói lại và bị quăng xuống những con sông để họ chết chìm rồi loan tin là những người này bị VNQDĐ thủ tiêu.
Vụ này đã làm cho
VNQDĐ tan rã, nhiều người phải chạy trốn sang Tầu trong đó có cụ Nguyễn Hải
Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Hồng Khanh, Hoàng Đạo, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và
nhiều lãnh tụ của Việt Quốc và Việt Cách khác. Hàng ngàn người khác bị chúng
bắt đem di giam giữ tại Hỏa Lò Hà Nội và nhiều nơi khác trong đó có nhà văn
Khái Hưng Trần Khánh Giư.”
Tôi sinh sau đẻ muộn nên không được
tường tận về những sự kiện thượng dẫn nhưng biết chắc rằng – ngoài những nhân
vật nổi tiếng vừa nêu – còn có vô số những đảng viên cấp địa phương (của cả
Việt Quốc lẫn Việt Cách) cũng bị truy lùng hay sát hại vì không “bung” kịp,
hoặc không tìm được đường để ra đến nước ngoài.
Thân phụ tôi là một trong những kẻ
thuộc cái đám đông vô danh tiểu tốt này. Thay vì chạy sang Tầu, như phần lớn
những đồng chí ở trung ương, ông trốn vào Nam. Tuy tay trắng, không có chi để
lận lưng, ngoài cái bằng tiểu học (Certificat D’Étude Primaires Complémentaires
Indochinoises, C.E.P.C.I) ông vẫn kiếm được đôi ba chỗ kèm trẻ, và một nơi để
trú thân, trong một cái xóm lao động nghèo nàn – có tên là Xóm Chiếu –
bên Khánh Hội.
Trong Thư Về Làng (viết năm 1956) nhạc sỹ
Thanh Bình tâm sự: Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng/ Sắt son gửi
trong mấy hàng/ Thăm bà con dãi dầu năm tháng/ Từ Tiền giang thương qua đèo Cả
thương sang/ Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng …
Bố tôi không phải là nghệ sỹ nên ông
chỉ đề cập đến chuyện cơm, áo, gạo, tiền … Thư ông viết: “Trong này có khi cơm
ăn không hết, người ta đổ cho gà hay cho lợn”. Mẹ hiền, tất nhiên, không thể
nào tin vào một chuyện “hoang đường” cỡ đó!
Bà vùng vằng, tức tối xé nát tờ thư
trong tay (ấy là tôi đoán thế, nếu sai, xin má thứ tha và bỏ
qua cho thằng con út) lầu bầu: “Lại phải lòng con đĩ nào trong ấy rồi, và chắc
là định trốn vợ trốn con luôn đây, chứ thức ăn ở đâu ra mà lại phí phạm như vậy
được?”
Nói xong, bất chấp mọi sự can
ngăn/khuyên giải của họ hàng nội ngoại, bà tức tốc lặn lội vào Nam. Tới nơi,
hiền mẫu tìm quanh quất mãi nhưng chả ra một con đĩ (ngựa) nào ráo trọi
mà nhìn đâu cũng thấy phố xá tấp nập, hàng quán tùm lum, và đồ ăn thức uống ê
hề khắp chốn.
Vốn ham vui, và rất chóng quên nên mẹ
tôi ở lại luôn trong Nam cả năm trời. Hệ quả (hay hậu quả) là tôi cất tiếng
khóc chào đời tại Sài Gòn. Khi hiệp định đình chiến được ký kết tại Geneve, vào
ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi mới vừa lẫm chẫm biết đi. Cũng mãi đến lúc này bà
má mới “chợt nhớ” ra rằng mình còn mấy đứa con nữa, đang sống với ông bà ngoại,
ở tuốt luốt bên kia vỹ tuyến.
Thế là tôi được bế ra ngoài Bắc, rồi
lại được gồng gánh vào Nam (cùng với hai người chị) không lâu sau đó. Nhờ vậy
(nhờ ra đời trước cái đám Bắc Kỳ con sinh trong Nam đôi ba năm) nên từ thuở ấu
thơ tôi đã được nghe nhiều bài hát ca ngợi tình bắc duyên nam –
qua radio – vào thời điểm đó :
- Người từ là từ
phương Bắc đã qua dòng sông, sông dài
Tìm đến phương này, một nhà thân ái
Ơi!
Tình Bắc duyên Nam là duyên tình chung muôn đời ta đắp xây…
(“Khúc Hát Ân Tình.” Xuân Tiên & Song
Hương).
- Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa
Em đất Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mâu
Đồi nương thương sức cần lao/
Se duyên Nam Bắc ngọt ngào tình yêu, ngọt ngào
tình yêu…
Chuyện se duyên Nam Bắc có ngọt
ngào tình yêu (thiệt) không thì chả ai dám chắc, và cũng không có chi
bảo đảm cả nhưng với thời gian – rồi ra – ai cũng biết cái mền là cái chăn, cái
mùng còn gọi là cái màn, cái phong bì với cái bao thư là một, cái bật lửa đã
trở thành bựt lửa, cái hôn và cái hun cùng một nghĩa (và cùng đã)
như nhau.
Cuộc chung đụng giữa cái bàn là với
cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi
với cái vá, cái thìa với cái muỗm … tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận
thảo và tốt đẹp.
Kết quả của mối giao duyên tốt lành
này là một phần tư thế kỷ sau – dù chả cần ai tuyên truyền, hay cổ động gì ráo
nạo – chàng trai Biên Hoà Nguyễn Tất Nhiên vẫn cứ si mê “cô em tóc demi garçon,” và mê chết
bỏ: Đôi mắt tròn, đen, như búp bê/ Cô đã nhìn anh rất… Bắc Kỳ/ Anh vái
trời cho cô dễ dạy/ Để anh đừng uổng mớ tình si. (“Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ.” NXB Nam Á: Paris
1982).
Nền Đệ I Cộng Hoà ở miền Nam cũng có
không ít những khiếm khuyết (vô cùng đáng tiếc) nhưng việc ổn định hằng triệu
người dân di cư phải được coi là một điểm son của chế độ này, nhờ vào sự trợ
giúp tận tình của cả nước Hoa Kỳ. Không phải thế lực ngoại bang nào đến Việt
Nam cũng chỉ với mục đích xâm chiếm, cùng với chính sách chia để trị.
Chủ trương phân biệt vùng miền, mỉa
mai thay, lại là đường lối xuyên suốt và nhất quán của cái nhà nước được mệnh
danh là cách mạng hiện hành – theo như lời của nhiều công dân Việt :
+FB Trần Đình Thu: “Để kỳ thị hai miền
Nam Bắc xẩy ra ngày càng nghiêm trọng là do những chủ trương tuyên truyền
hung hăng của nhà nước VN.”
+Blogger Ku Búa: “Ai là người gây ra nạn phân
biệt Bắc Kỳ Nam Kỳ? Đó không phải là sự khác biệt trong tư duy, trong môi
trường sống, trong quan niệm sống hay con người. Mà chính là sự phân biệt
trong chính sách chính phủ hiện tại.”
+FB Thuc Tran: “Bất công là nguồn gốc của
mọi sự thù ghét nhau giữa dân chúng hai miền và có lẽ đó cũng là ý đồ của
đảng khi chia để trị.”
Họ có quá lời chăng?
Không dám “quá” đâu. Từ cuối thế kỷ
trước, ông Vũ Đình Huỳnh (một nhân vật quan
trọng của ĐCSVN) cũng đã từng nói những điều tương tự: “Sài Gòn là một thành
phố bị chiếm đóng. Không phải là một thành phố được giải phóng. Chỉ vài năm
thôi, nó sẽ giống Hà-Nội.” (Nguyễn Chí Thiện. Hỏa Lò. 7th ed.
NXB Cành Nam, Virginia: 2007).
Thực sự thì Sài Gòn chưa bao giờ được
Bên Thắng Cuộc xem “giống như Hà Nội” cả. Sự thực phũ phàng này được nhìn thấy
rõ hơn trong những ngày tháng vừa qua.
Tác giả Nguyễn Khoa nhận xét:
“Dịch bệnh cũng làm
bộc lộ mâu thuẫn chính trị vùng miền, với sự thống trị của miền Bắc, vốn là nơi
phát xuất những đội quân chiến thắng năm 1975. Trong những năm 1990, người ta
dành kinh phí quốc gia để xây dựng đường số 5 Hà Nội – Hải Phòng, hay đường số
18 Hải Dương – Quảng Ninh, thay vì con đường nhiều hàng hóa hơn là Quốc lộ 1
Sài Gòn – Mỹ Tho, hay liên tỉnh số 8 Sa Đéc – Long Xuyên.
Việc này có thể được thông cảm vì hệ thống đường sá miền Bắc quá tệ hại. Nhưng
vào năm 2021, với một dân số gấp đôi, số người nhiễm bệnh gấp ba Hà Nội, mà số
liều vaccine phân phối về Sài Gòn lại ít hơn là điều không thể tha thứ được.”
Bao giờ mà kẻ thống trị còn giữ được
quyền bính thì họ chả cần đến sự “tha thứ” của bất cứ ai. Câu hỏi đặt ra là cái
đạo quân chiếm đóng hiện nay sẽ còn tiếp tục duy trì được quyền lực ở Việt Nam
thêm bao lâu nữa, và chuyện gì sẽ xảy ra sau đó?
Tưởng Năng Tiến
8/2021
Nhận xét
Đăng nhận xét