SỐ PHẬN MỘT LOÀI CHIM
Tác giả: TRẦN TRUNG ĐẠO
Giới thiệu: Sự kiện bài hát chống Mỹ Cô Gái Vót Chông được Hoa Hậu Việt Nam Đỗ Thị Hà biểu diễn tại Puerto Rico gây nhiều phản ứng. Định chế của Puerto Rico trong quan hệ với Mỹ được đặt dưới dạng đặc biệt sau chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha 1898, chưa sáp nhập hẳn thành một tiểu bang của Mỹ nhưng không có chủ quyền của một quốc gia độc lập. Dĩ nhiên trong hệ thống tuyên truyền của đảng CS, việc chọn một bài hát để trình diễn trước một chương trình quốc tế phải bị kiểm duyệt kỹ càng. Đỗ Thị Hà và phái đoàn Việt Nam chọn bài hát và bộ máy kiểm duyệt chấp thuận bài hát. Với mức độ phổ biến do bầy vẹt và hàng triệu chiếc loa phường hét the thé suốt 46 năm qua, Cô Gái Vót Chông dù có lời hay không lời cũng không khác gì nhau. Trong thời điểm Mỹ đang cứu sống Việt Nam với 17 triệu liều vắc xin chống Covid-19, việc trình diễn những bài hát chống Mỹ là hành động ngu xuẩn ngoài tự điển. Nhưng đừng quên vẹt là một loài chim. Mỗi sáng vẹt vẫn hát mừng vui chào đón một ngày mới như được luyện tập từ nhiều năm và không thể biết hôm đó gia đình chủ đang có đại tang. Điều đó cho thấy, dù hiện tượng xã hội có khác nhau giữa Bắc Hàn và Việt Nam, bản chất chuyên chính của hai chế độ vẫn giống nhau. Một em bé Bắc Hàn được huấn luyện để trở thành vẹt và em bé Việt Nam cũng thế. Khác chăng chiếc lồng sắt của em bé Việt Nam rộng và thưa hơn để được nhìn thấy nhiều nét đẹp bên ngoài. Bài viết này viết 16 năm trước trên diễn đàn Talawas nhưng nội dung vẫn không thay đổi vì giống như bầy chim Bắc Hàn, cho tới nay bầy chim Việt Nam vẫn còn hót trong lồng sắt.
Tôi chưa hẳn đồng ý với cách cãi của
anh ta nhưng phải công nhận việc tôn trọng tự do của mọi sinh vật là đúng, nên
viết thư về Việt Nam hỏi ý một vị Đại Đức ở Hội An. Thầy trả lời theo lối
"vạn sự do tâm": "Chim công nghiệp vẫn là chim. Nếu môi trường
xấu làm cho chúng xấu đi thì môi trường tốt sẽ làm cho chúng tốt trở lại. Hãy
tập cho chúng quen dần, từng bước và khi chúng hoàn toàn quen thuộc với môi
trường bên ngoài thì phóng sinh chúng đi."
Tôi cho đó là giải pháp hợp lý. Rất
tiếc tôi lại quá bận để tập cho chim quen với thiên nhiên, bèn tặng chúng cho
người em và dặn chú ấy tập cho chúng quen dần với đời sống bên ngoài, định bụng
khi chúng hoàn toàn làm quen sẽ bàn với chú em làm lễ phóng sinh.
Tháng sau tôi trở lại nhà người em
nhưng không thấy chim. Chưa kịp hỏi, chú em trả lời: "Chẳng giấu gì anh,
ngày nào em cũng đem chim ra vườn tập. Chúng tiến bộ lắm. Chúng rất thích cảnh
thiên nhiên. Vừa thấy cảnh cây lá sum sê là chúng kêu ríu rít lên ngay. Tuần
trước, trong lúc em để chúng trên sân sau, chạy vào nhà trả lời điện thoại, khi
trở ra thì chỉ còn mấy cái lông rơi rớt bên cạnh chiếc lồng vỡ nát và con mèo
của hàng xóm đang nhảy sang bên kia hàng rào."
Tôi an ủi chú em theo lý luận của anh bạn Quảng Nam: "Hai con chim đó đã trọn nghiệp trong kiếp này, hy vọng đời sống sau, chúng sẽ làm chim của núi rừng tự do thay vì làm kiếp chim công nghiệp."
Mỗi khi nhớ đến câu chuyện hai con
chim, tôi lại ngậm ngùi nghĩ đến số phận của các em bé Bắc Hàn. Cuộc đời của
các em không khác gì những con chim công nghiệp kia. Ngay khi các em ra đời,
các cơ chế chính trị và xã hội đã được chuẩn bị sẵn để các em sống, suy nghĩ và
hành động một cách thích nghi.
Tương tự như môi trường dành cho loại
chim công nghiệp, cơ chế chính trị Bắc Hàn được xây dựng và tồn tại bằng niềm
tin tuyệt đối nơi lãnh tụ của họ. Trong cơ chế đó sự nhầm lẫn, hoài nghi dù hợp
lý đều không được cho phép tồn tại.
Trong buổi phỏng vấn dành cho tuần
báo Time, người cận vệ của Kim Chính Nhật đào thoát nhắc lại câu chuyện của một
người lái xe vô tình chạy lạc vào khu vực dinh thự của Kim Chính Nhật. Sau khi
thẩm vấn anh tài xế, đám cận vệ của Kim Chính Nhật đều đồng ý rằng anh ta thật
sự đi lạc. Tuy nhiên cách giải quyết họ chọn trong trường hợp đó là bắn chết
anh ta ngay tại chỗ. Gia đình anh tài xế được thông báo rằng anh đã "đền
nợ nước" và thưởng công cho gia đình một cái tủ lạnh.
Nhiều câu chuyện, đối với người sống
bên ngoài bán đảo Bắc Hàn, có thể là chuyện hoang đường đến độ buồn cười, nhưng
với người dân Bắc Hàn lại là chân lý, đúng như một nhà thơ Việt Nam có lần đã
định nghĩa: "Chân lý là đường đảng đã vạch ra và sự thật là gì đảng đã dạy
ta."
Giờ sinh của Kim Chính Nhật, con trai
Kim Nhật Thành và là đương kim lãnh tụ Bắc Hàn, được mô tả trong giáo trình
tiểu học: "Lãnh Tụ Kính Yêu sinh ra trong một căn cứ quân sự bí mật bên
rặng núi thánh Paektu-san (Bạch Đầu Sơn), lúc Người ra đời một có hai cầu vồng
rực rỡ và một ngôi sao sáng hiện ra trên nền trời" (Người dân Bắc Hàn gọi
Kim cha là Lãnh Tụ Vĩ Đại hay Lãnh Tụ Vĩnh Cửu và Kim con là Lãnh Tụ Kính Yêu).
Thật ra làm gì có căn cứ quân sự nào,
chẳng trên núi thánh nào và lại càng không có chuyện thần thoại như hai vòng
cầu vồng ngũ sắc hiện ra trong giờ Kim Chính Nhật giáng trần. Theo sử liệu của
Sô-Viết cũ, anh chàng Kim Chính Nhật sinh ra trong một đồn lính nhỏ hẻo lánh ở
Siberia vì cha anh ta, Kim Nhật Thành, làm lính cho Stalin sau khi trốn khỏi
Mãn Châu.
Một mẩu chuyện khác về Kim Chính
Nhật: "Mặc dù trước kia chưa bao giờ chơi gôn (golf), khi cầm cây gôn lần
đầu Lãnh Tụ Kính Yêu đã đánh trúng ngay 5 lỗ một lần." Và nữa, "Một
lần nọ, Lãnh Tụ Kính Yêu đến kiểm tra súng của một đơn vi quân đội và trước mặt
binh sĩ Người đã rút súng bắn trúng ngay mắt trái của mười con bò rừng."
Kim Chính Nhật không phải là người thường, trong ý thức của người dân Bắc Hàn,
anh chàng là hiện thân của một thiên thần.
Chàng ta tuy chưa bao giờ đi lính một
ngày nhưng được gọi trong sách là "Tướng Trời". Tại Bắc Hàn, ngay cả
chiếc khăn để lau tấm ảnh của hai cha con họ Kim cũng không được phép dùng để
lau các đồ vật khác trong nhà. Giống như những con chim công nghiệp, các em bé
Bắc Hàn cũng líu lo mỗi sáng, nhưng nếu ai lắng tai nghe, bài hát các em hát
trong giờ vào lớp luôn bắt đầu bằng câu: "Hoa nở nhờ có không khí và các
em cười nhờ ơn của Kim Lãnh Tụ Vĩ Đại."
Học sinh Bắc Hàn được dạy phải
"yêu tổ quốc và yêu đồng bào" nhưng tổ quốc của em được mô tả trong
sách vở không phải là một quốc gia nghèo đói, cô lập với thế giới bên ngoài mà
một thiên đường trên trái đất dưới sự lãnh đạo anh minh của Kim Lãnh Tụ.
Trong các ví dụ được dùng ở trường
học, từ văn chương đến toán học, cuộc đời và sự nghiệp của hai cha con họ Kim
luôn được dùng để ví những điều tốt đẹp và "đế quốc Mỹ xâm lược" luôn
được dùng để ám chỉ những điều xấu xa tội lỗi nhất trên đời.
Sinh viên học sinh Bắc Hàn rất kiêu
căng khi nói về lịch sử và dân tộc Triều Tiên vì một lý do đơn giản, ngoài
những câu chuyện tuyên truyền được dạy ở trường, họ không biết gì về lịch sử
loài người và cũng không biết đúng về lịch sử của tổ tiên họ. Và với một môi
trường như thế, nhiều thế hệ người dân Bắc Hàn, hơn nửa thế kỷ qua đã tiếp tục
sinh ra, lớn lên trong số phận một loài chim công nghiệp.
Mặc dù những mẩu chuyện trên có thể
gợi lại trong ký ức của những người Việt lớn tuổi những hình ảnh, những tiếng
thì thầm nghe rất quen quen, tuổi thơ Việt Nam ngày nay dù sao cũng may mắn hơn
những người cùng tuổi với họ ở Bắc Hàn.
Trong lúc nhiều nơi vẫn còn khó khăn,
thiếu thốn, đa số tuổi thơ Việt Nam đang có một đời sống tinh thần dễ chịu hơn
tuổi thơ Bắc Hàn. Bài học của thiếu nhi Việt Nam học hôm nay không đến nỗi
hoang đường như của thiếu nhi Bắc Hàn và bài hát của các em bé Việt Nam hát
không trơ trẽn khó nghe như những câu mà thiếu nhi Bắc Hàn dùng để ca tụng cha
con họ Kim. Ánh sáng bên ngoài đã theo những khe hở của "chính sách đổi
mới" rọi vào căn nhà Việt Nam mang theo kiến thức mới lạ từ những phương
trời khác. Qua những khe hở đó, chúng ta cũng được nghe nhiều tiếng nói chân
thành vọng ra từ trong nước tương tự như chúng ta đang nghe những ưu tư trăn
trở của những người Việt đang sống ở ngoài nước dù họ đã một thời lớn lên bên
này hay bên kia sông Bến Hải.
Như vậy có gì giống nhau trong hoàn
cảnh của hai em thiếu nhi Bắc Hàn và Việt Nam không?
Có chứ. Hai cơ chế chính trị ảnh
hưởng đến đời sống của các em bé Bắc Hàn và Việt Nam về căn bản vẫn giống nhau.
Hai con nước đều bắt nguồn từ thượng lưu sông Volga trong những thập niên năm
đầu của thế kỷ 20 và vẫn còn đang chảy xiết.
Cả hai cơ chế chính trị đều nhằm ngặn
chặn mọi suy nghĩ độc lập và hủy diệt mọi khả năng phản kháng của con người.
Quyền căn bản đầu tiên trong nghiên cứu khoa học là quyền đặt vấn đề, thế nhưng
quyền đó không đươc tôn trọng trong hai xã hội Bắc Hàn và Việt Nam.
Hiện nay, nhiều quốc gia và hàng trăm
tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, nhân đạo khắp thế giới đang tìm mọi cách để cứu
giúp thiếu nhi Bắc Hàn, nhưng đồng thời, mọi người cũng đồng ý rằng, tất cả
những gì họ đang làm chỉ là những biện pháp vá víu trong lúc chờ đợi một sự
thay đổi toàn diện và căn bản.
Đúng vậy, sinh mệnh của một quốc gia
không thể thay đổi bằng vài bao bột mì, hướng đi của một đất nước không thể
được lót bằng dăm ba lon sữa và hạnh phúc của một dân tộc không bao giờ đến
bằng sự vuốt ve an ủi từ những bàn tay thương xót bên ngoài.
Số phận của một dân tộc phải được
quyết định bằng mồ hôi nước mắt, bằng những tấm lòng tận tụy với tương lai dân
tộc, bằng đức tính kiên nhẫn làm việc vì đất nước của chính người dân nước đó.
Và dù diễn ra dưới bất cứ hình thức nào, nhẹ nhàng hay cứng rắn, xói mòn hay
cường tập, thay đổi cơ chế chính trị vẫn là mục tiêu quyết định của mọi cuộc
cách mạng xã hội.
Trần Trung Đạo
Nhận xét
Đăng nhận xét