TT Ngô Đình Diệm và vai trò lịch sử của CIA tại Việt Nam (2)
vai trò lịch sử của CIA tại Việt Nam (2)
Nguyễn Văn Lục
( Tiếp theo phần 1)
Ngoài những can thiệp giúp chính quyền Ngô Đình Diệm ổn định người di cư, dẹp yên các giáo phái và truy diệt nhóm Bình Xuyên, CIA còn can dự vào việc Trưng cầu Dân Ý cũng như việc truất phế Bảo Đại như chúng ta đều biết.
Những can thiệp của CIA có ý nghĩa nhất đối với chính quyền của ông Ngô Đình Diệm là thẻ căn cước bọc nhựa.
- Thẻ căn cước bọc nhựa
Qua chương trình của nhóm MSU-Michigan State University, từ năm 1955-1959, CIA đã có chương trình đào tạo ngành cảnh sát cho Việt Nam về các chương trình an ninh, tình báo, v.v..
Nhưng quan trọng hơn cả là vào năm 1957, CIA đã giúp Việt Nam chương trình phát hành thẻ căn cước bọc nhựa cho tất cả công dân miền Việt Nam Cộng hòa từ 15 tuổi trở lên. Họ phải trình diện ghi danh, lấy dấu tay để được cấp phát một thẻ căn cước. Việc lấy dấu tay này giúp các cơ quan chính quyền và an ninh về tư cách công dân của người dân.
Thẻ căn cước rất quan trọng vì nó gián tiếp loại các thành phần Việt cộng nằm vùng. Họ trở thành đối tượng của việc truy lùng và bắt giam vì không có thẻ căn cước. Thẻ này giúp người dân trong mọi giao dịch hành chánh, đi bầu cử cũng như việc học hành, thi cử v.v.. (William Blum, Ibid, trang 140)
- Việc nứt rạn mối liên hệ giữa ông Diệm và Mỹ
Chính phủ Mỹ và CIA có trách nhiệm đưa ông Diệm về miền Nam và tạo dựng ra nền Đệ Nhất Cộng Hòa thì cũng chính chính phủ Mỹ cũng là người có trách nhiệm trong việc loại bỏ chính quyền Ngô Đình Diệm.
Đó là mặt trái, mặt phải của CIA. Và đó cũng là cớ sự để không thể nào tin vào chính phủ Mỹ bây giờ và sau này.
Ngay từ năm 1957 ông Ngô Đình Diệm đã đạt được nhiều thành quả về mặt giáo dục học đường đến bậc đại học như các trường kỹ sư, trường Quốc Gia Hành chánh, thành lập một quân đội chính quy với các sĩ quan có căn bản huấn luyện tại các quân trường như Võ Bị Đà Lạt, trường sĩ quan Thủ Đức.
Những kết quả ấy thật đáng kể vì đã đạt được chỉ trong một thời gian vài năm trời. Trong 6 năm đầu, trong cuốn sách: Sáu năm hoạt động của chính phủ, tác giả Hồ Đắc Huân trong “Sáu năm hoạt động của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa” đã ghi lại những thành tích đạt được dựa theo các tài liệu của chính phủ VNCH. Người ta không thể nào phủ nhận những thành quả ấy. Cụ thể như trong ngành giáo dục.
Không hiểu vì lý do gì, trừ Nixon và một vài người như đại sứ Nolting, William Colby và phó tổng thống Jonhson, chính phủ Mỹ không có tài liệu, dù của CIA, nói về những thành quả tốt đẹp ấy?
Tài liệu của chính phủ Mỹ về viện trợ của Hoa Kỳ nhằm xây dựng nền móng xã hội tại Việt Nam (và những nước khác) lưu trữ rất nhiều thư viện Quốc hội Hoa Kỳ cũng như trong một số sách của nhiều tác giả khác nhau. Ví dụ:
- Những Đạo luật Viện trợ Ngoại quốc (Foreign Asistace Act) năm 1961, 1963, 1967, v.v. và nội dung những cuộc điều trần trước quốc hội trong những năm đó.
- Thư của Kennedy gởi Quốc hội xin 4,5 tỉ đô la viện trợ nước ngoài (Message to Congress: Kennedy Asks Congress For $4.5 Billion in Foreign Aid),
- Loạt tài liệu của Văn phòng Sử gia Mỹ (Office of the Historian), Foreign Relations of the United States Series thường viết tắt là ‘FRUS’;
- Jessica Elkind, “Aid Under Fire: Nation Building and the Vietnam War” (2016); Delia T. Pergande, “Private Voluntary Aid and Nation Building in South Vietnam: The Humanitarian Politics of CARE, 1954–61” (2002); Ronald L. Beckett, “Jack of All Trades: An American Advisor’s War in Vietnam, 1969-70” (Stackpole Military History Series, (2016); Andrew J. Gawthorpe, “To Build as Well as Destroy: American Nation-building in South Vietnam” (Cornell University Press, 2018).
Bart Barnes, trong bài “AID Official Donald MacDonald,” đăng trên trang B6, tờ Washington Post, ngày 15 tháng 1, 2004, về một công chức cao cấp của cơ quan viện trợ Mỹ, ông Donald MacDonald, viết,
“chương trình viện trợ khổng lồ cho Việt Nam, ‘Với sự tham gia của hàng chục nghìn người và hàng trăm triệu đô la — 684,9 triệu đô la vào năm 1966, con số chi tiêu cao nhất dưới sự lãnh đạo của ông MacDonald tại Việt Nam.’”
Thực ra giúp xây dựng nền móng xã hội VNCH không chỉ có Mỹ mà còn có rất nhiều quốc gia khác trong thế giới tự do đóng góp trong chương trình Chương trình Viện trợ Thế giới Tự do (Free World Assistance Program (FWA)]
- Nixon có hai nhận định đánh giá việc các thành quả của Ngô Đình Diệm. Việc thứ nhất, tối quan trọng là ổn định tình hình mà chỉ khi ông Diêm bị lật đổ, người ta mới nhận ra sự quan trọng của nó. Nixon viết:
“President Diem stabilized South Viet Namn as a keystone holds up a dome. Political forces converged on him from all directions, but by balancing one against another, he locked all of them into place. And just a s a keystone importance I s not apparent unless it is removed, Diem’s vital role became clear only after his demise, when the entire South Vietnamese political system came crashing down.” (Richard Nixon, No more Vietnams, trang 70)
Điểm nhận xét thứ hai của ông Nixon về ông Diệm:
“Diem jealously guarded his independence, often rejecting or ignoring the advice of his American advisers. After all, he was a proud Vietnamese nationalist who would not take orders from Americans any more than he had from the French. ‘America has magnificient economy and many goods points,’ he once told reporters ‘But does your strength at home automatically mean that the United States is entitled to dictate everything here in Vietnam, which is undergoing a type of war that your country has never experienced?’” (Richard Nixon, Ibid., 62-63)
Họ tỏ ra quá đòi hỏi và bi quan cũng như có cai nhìn hẹp hòi tiêu cực về 6 năm ấy. Nhất là đại sứ Mỹ Durbrow. Điều đó cho thấy là khó có thể cộng tác và làm việc với chính phủ Mỹ được.
Người Mỹ đã đánh giá rất thấp và còn gọi đó là những năm tháng lãng phí: A wasted year. Cộng sản bắt đầu gia tăng khủng bố, ám sát tại thôn quê. Vì thế, theo tài liệu chính thức phúc trình của CIA đã ghi lại như sau:
“Durbrow concluded in December 1957 that Diem had largely wasted the opportunity of the past year to be urgent economic development program. The Ambassador called for pressure on Diem for decisions on economic and social issues and warned that continued inaction”might lead to a deteriorating situation in Viet Nam within a few years.”
Từ năm 1955-1957 lo ổn định và an ninh nội bộ cũng như định cư gần 1 triệu người không phải là một thành tích?
Theo tôi hiểu, sự mâu thuẫn giữa Mỹ và gia đinh Ngô Đình Diệm là sự đố kỵ về cá tính, về con người, về sự cứng cỏi của cả hai anh em ông Diệm.
Người Mỹ như một thứ chủ nhân ông muốn có một người được bảo trợ dễ bảo, nghe theo ý kiến của họ theo kiểu bảo sao nghe vậy. Sự đố kỵ ngày càng trầm trọng đi đến chỗ chính phủ Mỹ muốn loại bỏ anh em Ngô Đình Diệm như trong cuộc đảo chính 1960.
Vì thế giữa Ngô Đình Nhu và vợ với CIA có sự xung khắc dị biệt đến độ đối đầu và Nhu có vẻ như bướng bỉnh đến bất cần theo như lời tường thuật lại của Trần Quốc Bửu với Blaufard như sau:
“Evidence now emerge that Nhu perceived an increasingly adversarial quality in his relationship with official Americans, including his CIA contacts. In April, Tran Quoc Bưu told Blaufard that Nhu was aware the Americans detested him and his wife but that he insisted his commitment to the government’s “political line”would continue whether the Americans sympathised or not.” (Thomas L. Ahern Jr., Ibid., trang 125).
Cụ thể, sự bất đồng ấy bắt đầu là ông Nhu muốn CIA xử dụng Serei, một người Khmer chống đối lại quan điểm trung lập của thái tử Sihanouk. CIA không đồng ý và khuyến cáo anh em Diệm, Nhu bỏ ý định muốn lật đổ Sihanouk.Trong khi đó, cũng theo tài liệu trên viết,
“But the apparent concession was empty, as the Palace continued íts ploting against Sihanouk.” (Saig 6997, 21 july 1958, and SAIG 7000, 22 july 1958. Nations interview. 6 march 1991.)
Một vài chi tiết nhỏ khác cũng đưa đến chỗ CIA không tin tưởng vào Trần Kim Tuyến, cánh tay mặt của ông Nhu. Số là Tòa Đại sứ Mỹ có mướn một người tài xế và có sự khuyến cáo của Trần Kim Tuyến. Theo đó, Trần Kim Tuyến có bảo đảm với Blaufard là người tài xế này điếc. Nhưng sau đó, Blaufard khám phá ra tên tài xế này không điếc mà còn nói rành cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp.
Trong số những nhân viên chính phủ Mỹ sang Việt Nam để giúp chính phủ Diệm ngay từ giai đoạn đầu vào tháng 7-1954.. Nghĩa là ông Diệm vừa mới về cầm quyền chưa được hai tháng. McClintock là người ngay từ đầu không ủng hộ Diệm và có một thất vọng sâu xa về chính phủ Diệm đi ngược cả đường lối chung của chính quyền Eisenhower lúc bấy giờ. Trong một phúc trình của ông gửi về Hoa Thịnh Đốn, McClintock bày tỏ một sự bi quan sâu xa về khả năng điều hành chính phủ của ông Diệm trong một nhận xét kết luận như sau:
“Diem is a messiah without a message”. He cabled to the State Department. “His only formulated policy is to ask immediately American assistance in every form.” (McClintock to Dulles, 4 jul 1954 in FRUS 1952-1954, 13:1783-1784. Edward Miller, Ibid, trang 71.)
Sự đòi hỏi của Mỹ qua McClintock phải chăng là quá gắt gao và không sát với tình hình thực tế lúc bấy giờ?
Thái độ chủ nhân ông ấy sau này cũng xảy ra liên tiếp nơi các cố vấn khác làm việc với chính phủ Ngô Đình Diệm. Lý do của một số viên chức chính phủ Mỹ thất vọng về ông Diệm là thái độ cứng cỏi của ông Diệm và nhiều chính phủ Mỹ hy vọng rằng có thể chuyển đổi quan điểm của Ngô Đình Diệm sang phía thuận lợi cho phía chính phủ Mỹ?
Nhưng thất vọng sâu xa của McClintock về ông Diệm sẽ còn kéo dài mãi trong suốt giai đọan ông Diệm cầm quyền. Và có thể nó mở đầu cho sự thất vọng, chán nản đi đến chỗ muốn bỏ rơi ông Diệm.
Người thứ hai là đại sứ Durbrow ngay vào năm 1960. Trước sự gia tăng sự có mặt của cộng sản xâm nhập trên một cái đà đáng lo ngại. Thái độ bi quan nơi giới chức Mỹ lo ngại một sự sụp đổ của chế độ ông Diệm khó tránh được.
“That December, Durbrow repeated his concern that Diem was faced with “widespread popular dissatisfaction”and that he must improve his method of conducting the war against the Communists and take “vigorous action to build greater popular support”repeating that if he did not do so, “we may well be forced, in not too distant future, to.. identify and support alternate leadership.” (William Colby, Lost Victory. A firsthand account of American sisteen-year involvement in Vietnam, trang 107).
Có thể còn William Colby là hiểu hoàn cảnh của chế độ VNCH và có thái độ dung nhượng và biết điều. Nhưng con én không làm nổi mùa xuân. Những phúc trình của ông không được Wasinghton lưu tâm cho đủ, ông tâm sự:
“My old belief, nonetheless, was that on the balance the regime was doing a reasonably good job of modernizing a backward ex-colony and deserve support in doing so to strengthen against its communist ennemy. I could not censor my officers’ reports and forward only what I thought, but I did adopt the practice of sending along a monthly summmary and assessment in which I tried to put some balance into the overall picture. Unfortunately, my summaries not highly classified, and they went by diplomatic pouch instead of cable, all of which guaranted them little attention at the Washin William Colby, Ibid, trang 105. gton end.” (William Colby, Ibid., trang 105).
Số lượng những phúc trình tiêu cực càng nhiều về sự ông Diệm không đạt tiêu chuẩn mà họ mong đợi ở ông và không thể có một tiến trình thay thế hợp pháp nào được đặt ra.
Sự sụp đổ chế độ bắt buộc người ta nghĩ đến một giải pháp thay thế bằng bạo lực.
CIA đã vào việc và không sợ thất nghiệp.
Hình như mọi công việc như một guồng máy chạy nhanh hơn, những trao đổi, những gặp gỡ giữa CIA, báo chí Mỹ, Phật giáo và tướng lãnh mà không hề bị ngăn chặn. Tôi không hiểu các cơ quan mật vụ của Trần Kim Tuyến, Lê Quang Tung làm được gì? Riêng Trần Kim Tuyến tìm cách móc nối một cuộc đảo chánh bên ngoài nhóm tướng lãnh.
Người Mỹ cũng có những do dự chần chờ, vừa muốn những biện pháp cứng rắn, vừa hy vọng có biện pháp mềm dẻo. Nhưng sự chịu đựng nhau như thế kéo dài được bao lâu?
Riêng ngoại trưởng Foster Dulles là có một thái độ dứt khoát ủng hộ đối với Việt Nam Cộng hòa kể từ sau Hiệp định Genève như cho thành lập khối SEATO (Southeast Asean Treaty Organisation), mặc dầu Việt Nam không phải là thành viên của khối này.
Dưới mắt ngoại trưởng Dulles, ông Diệm đáp ứng một mẫu người chống chủ nghĩa cộng sản đúng thời điểm và đúng vai trò mà chính phủ Mỹ cần có một người như vậy. Và Dulles có những người đồng chí hướng thuận lợi như Kenneth T. Young, người đứng đầu văn phòng Đông Nam Á vụ. Cạnh đó còn có Thượng Nghị sĩ Mansfield, người mà ông Diệm đã có dịp tiếp xúc trong thời gian lưu trú tại Mỹ. Vị TNS này cũng là một người Thiên Chúa giáo và phải chăng vì thế dễ chia xẻ cái tình tự tôn giáo này? Ông cũng đã từng cảm phục ông Diệm và phát biểu,
“I was for Ngo Đinh Diêm all the way” he recall. (Don Oberdorfer. Senator Mansfield: The extraordinary Life of a great Stateman and Diplomat (Wasington, DC: Smithsonian book, 2003},118-121, 201. Edward Miller, trang 75.)
Một người Mỹ khác không thể không không nhắc tới ở đây là giáo sư Wesley Fishel, một giáo sư ngành chính trị học, người đã từng gặp Ngô Đình Diệm khi ông Diệm đến Nhật vào năm 1950. Ông này sau trở thành người thân cận nhất của ông Diệm. Và chính ông Diệm đã yêu cầu gửi Fishel sang Việt Nam để làm cố vấn cho ông Diệm trong việc tái xây dựng miền Nam. Tuy nhiên, tính cứng cỏi của ông Diệm làm một số người thân cận nơi ông cũng dần bỏ đi.
Ngay cả ông Bảo Đại, mặc dầu cá tính hai người như nước với lửa, trong Hồi ký Le Dragon d’Annam, cũng phải nhìn nhận như sau,
“Pour l’avoir déjà eu comme collaborateur, je savais que Diêm avait un caractère difficile. Je connaissais aussi son fanatisme et ses tendances un peu messianiques. Mais dans la situation présente, il n’y a pas de meilleur choix (…) Enfin en raison de son intrinsigeance et de son fanatisme, il était le plus sur garant contre le Communisme. Oui, vraiment, il étatit l’homme de la situation.”
(Để có được sự hợp tác của Diệm, tôi thừa hiểu rằng Diệm có cá tánh khó chịu. Tôi cũng biết rằng ông ta là một người cuồng tín và có khuynh hướng ít nhiều nghiêng về sự cứu độ. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, không còn có chọn lựa nào tốt hơn. Mặc dầu bản tính cố chấp, cuồng tín, nhưng ông lại là người bảo đảm nhất trong việc chống lại cộng sản. Phải, đúng như vậy, ông là người thích hợp của hoàn cảnh hiện nay.) (S.M Bao Dai, Le Dragon d’Annam, Plon 1980, trang 239)
Có lẽ không ai hiểu ông Ngô Đình Diệm bằng Bảo Đại. Đã có thời ông Diệm là Thượng thư triều đình của Bảo Đại. Sự khẳng khái, cương trực đến bướng bỉnh cố chấp là điều Bảo Đại biết rõ về con người Ngô Đình Diệm hơn ai hết. Chưa kể đã năm lần bẩy lượt mời ra tham chính đều bị Ngô Đình Diệm từ chối. Thiếu gì người sẵn sàng làm việc cho Bảo Đại như Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu đến Bửu Lộc đều thất bại. Ông Bảo Đại hiểu rằng giai đoạn thực dân Pháp đã chấm dứt. Hoa Thịnh Đốn trở thành người bảo trợ chính thức cho chế độ Diệm. Ngày 24-10, tổng thống Eisenhower đã gửi một thư riêng cho ông Diệm bảo đảm sự hỗ trợ vô điều kiện của nước Mỹ.
- Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của ông Diệm là sự cứng rắn đến cố chấp của ông trong các vấn đề chính trị. Người Mỹ trong nhiều phúc trình của CIA đã nhắc đi nhắc lại như sự đối đầu giữa tướng Collins và Diệm trong việc ông Diệm giải nhiệm ông Hồ Thông Minh trong chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. (Thomas Ahern. Jr., Ibid, trang 71).
Sự bất đồng ấy kéo dài cho đến hồi chung cục năm 1963. “The divergence of American opinion over tactic, which persisted until the eve of the coup in 1963.” (Thomas L. Ahern, ibid, trang 73.).
Vấn đề cá tính cứng cỏi của ông Diệm đến độ nhiều người trước đây ủng hộ ông sau đã tháo lui như TNS Mansfield, giáo sư Fishel hay Harwood v.v..
Cái cá tính cứng cỏi ấy lộ ra cho thấy ông không thể là một người làm chính trị nhạy bén, uyển chuyển tùy thời, biết tương nhượng, biết lùi nhượng bộ và đôi khi ngay cả chịu nhục cố đấm ăn xôi. Chỗ của ông phải chăng là một chính quyền độc lập, không bị ngoại quốc trực tiếp can thiêp? Giữa ông và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mức độ nhượng bộ như thế nào?
Nhưng cũng lạ thật, không ai — cả chính phủ Mỹ lẫn người Việt — tự hỏi xem vệc thay một bộ Trưởng tại sao cần có sự đồng ý của giới chức cao cấp Mỹ? Vậy đâu là chủ quyền do sự xen vào nội bộ của một chính phủ? Cũng vậy, chính phủ Mỹ muốn ông Nhu phải ra đi! Để dễ dàng thao túng ông Diệm? Để ông Diệm bó tay? Phần khác có dư luận chê bai dè bỉu là gia đình trị? Tại sao không ai lên tiếng gia đình Kennedy là gia đình trị? Về điểm này, xin ghi lại ý kiến của William Colby về gia đình Kennedy.
“I found it significant that none of the vigorous and widespread American official and media critics of Diem’s dependence on his brother Nhu for counsel that he could trust was able to divine any parallel in the American President’s unprecedented appointment of his brother as Attorney General in order to bolster both the official weight and propinquity of counsel the President could trust.” (William Colby, Ibid., trang 107)
( John Kennedy bổ nhiệm Robert Kennedy là Tổng Chưởng lý trong nội các chính phủ sau khi được quốc hội phê chuẩn; Donald John Trump bổ nhiệm Ivanka Trump và Jared Kushner làm cố vấn trong tòa Bạch ốc; trong khi đó, theo Virginia Spence thì vì Ngô Đình Nhu đã quá quen cách làm việc bí mật/ngầm (clandestine/covert), và không thể làm khác hơn, Nhu đã nói rất rõ là ông không nhận bất kỳ chức vụ nào trong nội các của tổng thống Diệm,
“Nhu insisted that he would accept no position in his brother’s Cabinet, and Spence believed he had “worked so long covertly he couldn’t bear to do otherwise.” (Thomas L. Ahern Jr., Ibid., trang 25).
Hơn nữa Robert Kennedy hay Ivanka Trump và Jared Kushner không hề ở chung nhà với Tổng thống Mỹ như gia đình ông Nhu đã sống cùng dinh thự với tổng thống Ngô Đình Diệm.
- Những yếu tố quyết định đưa đến việc lật đổ ông Diệm
The end of Diem
Phải nhìn nhận rằng trong giai đoạn đầu của chính phủ Diệm, mặc dầu trải qua những thời kỳ gian nan, sóng gió và bấp bênh nhất của nền Đệ Nhất Cộng hòa, Lannsdale được coi như là kingmaker trong chính phủ ông Diệm. Sự điều động khéo léo và tài tình của Lansdale đã giúp ông Diệm dẹp được giáo phái và nhóm Bình Xuyên. Lansdale cũng là người khuyên ông Diệm không sang Pháp trình diện Bảo Đại, đưa đến cuộc Trưng Cầu Dân ý truất phế Bảo Đại. Mặc dầu vậy, Lansdale cũng không tránh khỏi rất nhiều bực bội khi mười ý kiến đưa ra cho ông Diệm, thì may ra được một lần ông thuận. “He once told Paul Harwood that Diem took perhaps 10 percent of his advice.” (Thomas L. Ahern, Ibid, trang 89).
Nhưng điều làm cho Lansdale bực bội hơn cả là cố vấn Ngô Đinh Nhu.
Đằng sau ông Diệm là Ngô Đình Nhu ngăn cản những đề nghị của Landsdale. Lansdale mô tả Nhu như “Mussolini type character” hay “Fascist type State”. (Thomas L. Ahern, ibid, trang 90).
Những phúc trình và những nhận xét của CIA càng ngày càng nhiều với những nhận xét tồi tệ về gia đình ông Ngô Đình Diệm. Chẳng hạn:
“Agent reports of Nhu’s growing anti-Americanism multiplied in February and March, and his contact with the COS Nhu condemned those who had “betray”the President. The traitors include former Diem confidant Wesley Fishel of Michigan State University, now a critic whom Nhu accused of “woman’s fickeness and inconstancy”and father-in law, Trân Văn Chương. Other reporting said Nhu held the US responsible for the mutiny of late 1960 and the Palace bombing of february 1962, and than he now entertained the idea of replacing Diem as President. “If Nhu behavior suggested paranoid, his wife showed signs of megalomenia.” (Thomas L. Ahern Jr., Ibid., trang 165-166).
Stanley Karnow cũng nhắc lại một lần gặp riêng ông Ngô Đình Nhu, ông Nhu đã phàn nàn về thái độ mập mờ của Durbrow đối với chế độ; ông cho rằng chế độ không phải chỉ phải đối phó với kẻ thù cộng sản mà còn đối với người ngoại quốc là đồng minh.
“‘not only Commmunists, but foreigners who claim to be our friends.’ He would repeat that accusation until it finally came true in 1963, when Ambassador Henry Cabot Lodge encouraged a cabal of South Vienamese to oust Diem.”.(Stanley Karnow. VietNam A History. Trang 253).
Có thể có bốn thành phần quyết định lật đổ ông Diệm:
- Giới truyền thông, báo chí
Một mặt trận truyền thông nhằm bôi nhọ chế độ Ngô Đình Diệm và gia đình là vũ khí đáng ngại nhất của truyền thống dân chủ. Những nhà báo như Browne (Associate Press), Halberstam (The New York Times), Peter Kalischer (CBS News) và Sheehan (United States Press International) của Mỹ nhắm vào chế đô Ngô Đinh Diệm và không loại trừ bà Nhu với những ngôn ngữ “mất dậy” nhất.
Theo Trueheart, ông đã điện về Washington vào 10-7 và ghi nhận rằng:
“The reporters in question had lost all objectivity and were openly calling for Diem to be thrown.”
Geofrey Shaw. The Lost mandate of Heaven. The American Betray of Ngo Dinh Diem, President of Viet Nam. ( Ignatius Press. 2013.).
Trận Ấp Bắc
1963 Battle of Ap Bac. Nguồn: Michael E. Brooks
https://www.pbslearningmedia.org/resource/4110232b-0d7f-4c79-8ff3-b3a725275058/the-battle-of-ap-bac-video-ken-burns-lynn-novick-the-vietnam-war/en/#.XiFVvCN7kUF the Battle of Ap Bac, a major battle fought in Vietnam on January 2, 1963. Nguồn: The Vietnam War : A Film by Ken Burns & Lynn Novick
Báo chí Mỹ phê phán sự yếu kém của quân đội Quốc gia Việt Nam trong vụ Ấp Bắc. Người phê phán gay gắt nhất là nhà báo Neil Sheehan. Dựa theo những thông tin có được do viên cố vấn quân sự Mỹ John Paul Vann, Neil Sheehan đã viết hẳn một cuốn sách, A Bright Shining Lie: John Paul Vann and America in Vietnam (1988) , để viết về viên sĩ quan cố vấn này, đồng thời phê phán quân đội VNCH.
Phải nhìn nhận trong đó cũng có một số sự thật.
Sheehan cùng với Halberstam là cặp bài trùng phê phán nặng nề tổng thống. Diệm. Trong cuốn sách L’Innocence perdue. Un Américain au Viêt-nam, Editions Du Seuil, 1988, ông dành một chương từ trang 181-230 chỉ để nói nguyên do và sự yếu kém của hai sĩ quan chỉ huy: Bùi Đình Đạm, và nhất là Huỳnh Văn Cao về trận Ấp Bắc, vào tháng 1-1963.
Sheehan phê bình Huỳnh Văn Cao hèn nhát, tham nhũng, độc đoán và tránh né đụng độ để ít gây tổn thất. Việc phê phán này có ảnh hưởng lớn tới dư luận Mỹ và làm giảm uy tín của quân đội VNCH đối với công luận.
Theo Charles E. Kirkpatrick trong bài “The Battle at Ap Bac Changed America’s View of the Vietnam War” đăng trong Vietnam Magazine số tháng Sáu 1990, ngày 3 tháng 1, 1963, Halberstam, Arnett và Neil Sheehan đã quay sang hỏi viên cố vấn Sư đoàn 7 bộ binh, Trung tá John Paul Vann, về trận Áp Bắc. Viên cố vấn Mỹ cho biết rằng cuộc chiến đã kết thúc vào ngày hôm trước, và đó không phải là một thành công. Paul Vann giận dữ nói với Sheehan:
“Đó là một trận đánh thê thảm. Những người này không chịu lắng nghe. Họ làm lỗi, lặp đi lặp lại nhiều lần theo cùng một lỗi.”
Nó có một phần sự thật, vì hai sĩ quan này đều được ông Diệm tin dùng. Nhưng nó đã mở đầu cho các cuộc tấn công phê phán về sự yếu kém của quân đội Việtnam. Chẳng hạn Halberstam phê phán ông Diệm về vai trò chỉ huy quân đội, chỉ dùng những tay chân thân tín “political loyalty rather than military ability”. Điều đó cũng đúng một phần. Hay các sĩ quan chỉ huy thiếu khả năng huấn luyện hoặc thiếu kinh nghiệm chiến trường. (Geoffrey Shaw. Ibid, trang 166- 167).
Không phải chỉ Halberstam nói ông Diệm chỉ dùng người thân tín, Charles E. Kirkpatrick, trong bài viết trên Vietnam Magazine, Vietnam Magazine số tháng Sáu 1990, cũng cùng nhận định,
“Huỳnh Văn Cao không phải là vị tướng xông pha ngoài trận mạc và cũng không phải là người chỉ huy quân sự có khả năng. Trên thực tế, ông là một trong những người dược bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7 danh tiếng vì lòng trung thành với Tổng thống Diệm, và vì ông là người Huế Thiên Chúa giáo. Năm 1962, tổng thống Diệm vẫn lo sợ bị đảo chính như cuộc đảo chính hụt năm 1960. Vì thế chính ông, chứ không phải Bộ Tham mưu, bổ nhiệm những tướng chỉ huy quan trọng, và ông luôn chọn những người trung thành với ông.” (Charles E. Kirkpatric).
Và rồi, họ đi đến kết luận là đổ tất cả trách nhiệm ấy trên chính quyền Diệm. Dẫn chứng:
“The editorial “What’s wrong in Vietnam” which appear in the Newyork Times on January 15, 1963, plainly targeted Diem and his government as being the cause of the Ap Bac defeat.” (Geoffrey Shaww, Ibid., trang 172).
Neil Sheehan trong bài “Crisis in Vietnam: Antecedents of the Struggle” đăng trên tờ The New York Times ngày 27 tháng Tư, 1964, viết lại về trận Ấp Bắc,
“Một tiểu đoàn Việt Cộng, ít hơn chín lần quân của chính phủ, được máy bay trực thăng, máy bay ném bom và pháo binh yểm trợ, đã chiến đấu chống lại quân đội VNCH, bắn hạ năm máy bay trực thăng và thoát đi trong đêm đó. Sáu mươi lăm binh sĩ VNCH và ba người Mỹ đã thiệt mạng và 100 binh sĩ Việt Nam bị thương. Bốn mươi bảy Việt Cộng bỏ xác ở chiến trường và một số không rõ bị thương.”
(Neil Sheehan)
Khi Lodge sang Vietnam thì đã có những bữa ăn sáng do đại sứ Lodge và vợ là Emily tiếp đãi ký giả. Những ký giả được mời để Lodge trao đổi và thăm dò tin tức là Halberstam, Browne và Neil Sheehan. Đây là câu trả lời của Sheehan với Lodge:
“Nhà Ngô là những tên khùng điên và bị dân chúng ghét và họ không có khả năng để điều hành chính phủ, trong khi đó Việt Cộng mỗi ngày một xâm chiếm các vùng lãnh thổ và nếu cứ để Diệm và gia đình ông ta nắm chính quyền, thì chắc chắn sẽ thua trận. Nhưng nếu thay họ bằng một đám tướng lãnh thì cũng không có gì bảo đảm là đám tướng lãnh này làm hay hơn, nhưng ít ra thì người ta còn có cái quyền hy vọng. Trong khi với gia đình họ Ngô, viễn tượng thua trận là điều chắc chắn.” (Neil Sheeham, ibid, trang 302).
Nhưng khi Sheehan hỏi ngược lại đại sứ Lodge về ý kiến của ông ấy. Ông mỉm cười, một tay ôm vợ và trả lời: “A peu près le même que le votre”. (Cũng gần như ý các anh vậy thôi).
Sau này xem lại hồ sơ “Dossiers du Pentagone”, Sheehan thấy, ông đại sứ hỏi xã giao vậy thôi. Chứ thật ra, “son opinion était déjà faite avant son arrivée” (Ý kiến của ông ta đã có sẵn ngay cả trước khi ông ấy đến Việt Nam.) (Neil Sheehan, ibid, trang 303).
Trước những trận bão táp của giới truyền thông báo chí, đại sứ Nolting khi quay trở lại Saigon, ông viết:
“Most disturbing of all, Nolting found Diem in what he called “martyr’s mood”, with heigftened suspicions and resentments, some of them well founded, about American pressures and Buddhist intention. He ìnformed Washington of what he thought was the best course of action.” (Geofrey Shawn, Ibid., trang 228-229).Với riêng về bà Nhu, báo chí truyền thông bôi nhọ thẳng tay như nhận xét của Đại sứ Nolting trong cuốn Hồi ký của ông From Trust to Tragedy, ông viết:
“She had little formal education in the Western sense, but she had extraordinary vitality and energy. Being young, photogenic, and only too willing to talk, she was a natural target for the press.” (Nolting, From Trust to Tragedy, 99. Geoffrey Shaw trích lại trong The Lost mandate of Heaven, trang 230).
Nhưng có lẽ tồi tệ nhất và có thể đáng khinh bỉ nhất là lời bôi nhọ của phụ tá ngoai trưởng Averell Harriman. Cũng trong hồi ký của mình, ông Nolting nhắc lại một buổi thuyết trình của Averell Harriman với tư cách chủ tọa. Có khoảng 15 vị khác ngồi dọc theo một cái bàn dài. Harriman có đưa ra một điện tín được đánh đi từ Sài Gòn, nội dung nói về một bài diễn văn khác của bà Nhu chỉ trích chính quyền Mỹ. Ông Harriman đã đọc cho mọi người nghe nội dung điện tín, sau đó đã chuyển cho đại sứ Nolting với lời chú thích,
“Nolting, what are you going to do about this bitch? I passed it back with a note: “What would you propose, Sir”. ( Nolting, Ibid, 101-2. Geoffrey Shawwn trích lại trong The Lost mandate of Heaven, trang 231.).
Thực ra Harriman không phải là nhân vật duy nhất gọi bà Nhu bằng hỗn danh “bitch”. Theo, Paul B. Fay Jr. thì John F. Kennedy gọi bà Nhu là “That goddamn bitch”.
“That goddamn bitch. She’s responsible for the death of that kind man. You know, it’s so totally unnecessary to have that kind man die because that bitch stuck her nose in and boiled up the whole situation down there.”
(Con khốn chết tiệt đó. Nó phải chịu trách nhiệm cho cái chết của con người hiền lành đó. Anh biết đấy, hoàn toàn không cần thiết để người hiền lành đó phải chết vì cái con chết tiệt ấy lúc nào cũng dí mũi vào làm toàn bộ tình hình ở đó sôi bỏng.) (Paul B. Fay, Jr., Oral History Interview – JFK #3, 11/11/1970, trang 199–200).
Đó là Paul B. Fay Jr., bạn thân của John F. Kennedy, thuật lại tâm trạng của tổng thống Mỹ sau cuộc đảo chánh khiến Tổng thống Diệm bị sát hại.
Paul B. Fay, Jr., Oral History Interview – JFK #3, 11/11/1970, trang 199–200.]
Kinh nghiệm cho thấy trong bất cứ cuộc lật đổ nào trên thế giới do CIA dàn dựng thì đều có chiến dịch bôi nhọ chế độ ấy và được chuẩn bị kỹ càng trước cả năm trời. Như trường hợp Saddam Hussein. Vậy thì có gì đáng ngạc nhiên khi báo chí và “truyền thông thổ tả” Mỹ bôi nhọ chế độ Ngô Đình Diệm?
Nghị sĩ Mansfield trong một chuyến viếng thăm Việt Nam ghi lại là mối liên hệ giữa Mỹ và chính quyền Việt Nam tốt đẹp, trừ những tin tức báo chí thường có cái nhìn tiêu cực. Đáp lại nhận xét cua TNS Mansfield ông Nhu lên tiếng chê trách các phóng viên Mỹ
“Nhu claimed that their youth, immaturity in outlook, and passion were to blame, and that Vietnam needed older, more experienced reporters who could comprehend the difficulties the country was facing. (44)
(44) See “Memorandum of a Conversation, Gia Long Palace, Saigon, December 1, 1962. 11.30 AM (Subject: Senator Mike Mansfield visit to Vietnam}”, in FRUS, 1961-1963. vol 2, document 323-, pp752-53. Geoffrey Shaw trích lại trong The Lost mandate of Heaven, trang 167
Nói như ông Nhu cho rằng giới truyền thông Mỹ “trẻ người non dạ” thiếu kinh nghiệm thì được ích gì? Và với một giới truyền thông với nhiều tin giả, bôi nhọ như thế. Tại sao chính phủ ông Diệm không trục xuất những nhà báo như Halberstam, Neil Sheehan ra khỏi Việt Nam? Chính quyền Ngô Đình Diệm, chịu bó tay đã không thể có những biện pháp cứng rắn như thế chỉ vì một lẽ đơn giản là họ lệ thuộc nhận viện trợ của Mỹ!
Biện pháp mà chính quyền Ngô Đình Diệm trong một đất nước có chủ quyền là trục xuất khỏi Việt Nam những nhà báo như Browne, Kalisher, Sheehan và nhất là Halberstam ra khỏi Việt Nam.
Gớm thay cho sức mạnh của giới truyền thông báo chí như trường hợp nhà báo Halberstam.
- CIA và chính quyền Mỹ trong việc lật đổ chế độ Đệ I Cộng Hòa
Trong cuốn The Politics of Deception. JFK’S Secret Decision on Vietnam, Civil Rights, and Cuba của tác giả Patrick J. Sloyan, xuất bản năm 2015, lời mở đầu cuốn sách ghi:
“President Kennedy’s complicity in the overthrow and assassination of South Vietnamse president Ngo Dinh Diem, an event that planted the seed for a decade of jungle warfare and a nation divided.” (Patrick J. Sloyan)
Tổng thống Kennedy được coi là đồng lõa trong việc ám sát ông Ngô Đình Diệm. Việc mà ông ta đã thất bại nhiều lần trước đây đối với Fidel Castro. Bức điện văn 29 tháng 8, 1963 cho thấy Kennedy trực tiếp nhúng tay vào việc lật đổ ông Ngô Đình Diệm.
Việc tổng thống Kennedy nhúng tay vào việc lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm trở nên rõ ràng và không còn có gì để nghi ngờ khi đọc bức điện tín được coi là tối mật của tổng thống Kennedy gửi cho đại sứ Cabot Lodge ngày 29 tháng 8, 1963. Tổng thống chấp thuận giải pháp go-ahead trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm do các tướng lãnh của chế độ thực hiện.
Điện văn với nội dung rất rõ ràng như sau:
“[…] Until the very moment of the go signal for the operation by the Generals, I must reserve a contingent right to change course and reverse previous instructions. While fully aware of your assessment of the consequences of such a reversal, I know from experience that failure is more destructive than an appearance of indecision. I would, of course, accept full responsibility for any such change as I must bear also the full responsibility for this operation and its consequences. It is for this reason that I count on you for a continuing assessment of the prospects of success and most particularly desire your candid warning if current course begins to go sour. When we go, we must go to win, but it will be better to change our minds than fail. And if our national interest should require a change of mind, we must not be afraid of it. […]”
(John F Kennedy to Henry Cabot Lodge, telegram, August 29, 1963, Washington, Nolting papers, box 26, Professional papers, 2 o f 3. Geoffrey Shaw trích lại trong The Lost mandate of Heaven, trang 258. Hay “18. Message From the President to the Ambassador in Vietnam (Lodge)”, FRUS 1961–1963, VOLUME IV)VIETNAM, AUGUST–DECEMBER 1963.
Bạch hóa bức công điện này làm sáng tỏ dứt khoát tổng thống Kennedy đã trực tiếp bí mật cho phép Cabot Lodge tiến hành lật đổ tổng thống Diệm mà không qua các nhân sự trong tòa Bạch Ốc hay CIA. Kennedy là người đã trực tiếp bật đèn xanh cho việc lật đổ ông Diệm.
Trong cuộc phỏng vấn Lịch sử Truyền khẩu Henry Cabot Lodge ngày 4 tháng 8, 1965 với Charles Bartlett, Lodge nói:
“When it became evident that the Diem regime was in its terminal phase and when we were receiving all these rumors of various efforts by various groups of Vietnamese to take power, my instructions from President Kennedy were ‘not to thwart’” (trang 13)
- Henry Cabot Lodge
Kennedy ra lệnh cho Lodge không được “cản trở” đảo chính.
Cũng trong bài phỏng vấn này, Lodge tiết lộ quan điểm của Tổng Giám mục Salvatore Asta, đại diện của Giáo Hoàng tại Saigon (13 tháng 10, 1962 đến 23 tháng 3 1964), về chính phủ Ngô Đình Diệm. Lodge miêu tả về Tổng Giám mục Asta (khi đó khoảng hơn 47 tuổi) như sau,
“…this very remarkable man, Archbishop Asta—a young but very wise man with great gifts of leadership and courage—who had a relationship with the million and a half Vietnamese Catholics which was quite remarkable. They placed a degree of trust in him which I thought extraordinary.” (trang 16)
“…Người đàn ông phi thường này, Tổng Giám mục Asta, một người đàn ông trẻ tuổi nhưng rất khôn ngoan với khả năng lãnh đạo và lòng can đảm tuyệt vời, là người có mối quan hệ với triệu rưỡi người Thiên Chúa giáo Việt Nam, một người khá phi thường. Họ đặt lòng tin vào Tổng Giám mục ở mức độ mà mà tôi nghĩ là to lớn lạ thường.” (Henry Cabot Lodge).
Về quan điểm của Tổng Giám mục Asta đối với chính phủ Ngô Đình Diệm, Lodge nói:
“He was absolutely convinced that the Diem government had to reform itself, had to change its ways, that Mr. Nhu had to leave the country. I was present in the room when he told him so. I also was present in the room when he told Madame Nhu this on the telephone.” (trang 17)
“Ông ấy tuyệt đối tin rằng chính quyền Diệm phải đổi mới, phải thay đổi cách cai trị, và ông Nhu phải rời khỏi Việt Nam. Tôi có mặt trong phòng khi Giám mục Asta nói với ông Nhu như vậy. Tôi cũng có mặt trong phòng khi Giám mục nói với Madame Nhu điều này qua điện thoại.”
Henry Cabot Lodge, recorded interview by Charles Bartlett, August 4, 1965, (page 13-17), John F. Kennedy Library Oral History Program.
Nguồn: Henry Cabot Lodge, recorded interview by Charles Bartlett, August 4, 1965, (page 13-17), John F. Kennedy Library Oral History Program.]
- Ball, Harriman, Hilsman và Forestal “Những người chống Diệm”
Đây là bộ tứ với âm mưu lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Tiền thân của sự bất đồng sâu sắc với hai ông Diệm-Nhu có thể bắt đầu từ việc ký kết thoả ước Trung lập Lào. Ngay từ đầu năm 1957, khi gặp các cố vấn Mỹ, ông Diệm bày tỏ sự hối tiếc và bất đồng về việc trung lập hóa Lào do Harriman ký kết có liên quan đến tình hình an ninh của Việt Nam.
Lào là phên rậu cho Việt Nam. Trung lập Lào là cơ hội để cộng sản Việt Nam sau này xâm nhập vào miền Nam. Còn giữ được Lào là cửa ngõ an ninh sống còn của miền Nam. Mất Lào, Miền Nam rơi vào thế bị động. Cái lỗi lầm của Harriman và chính quyền Kennedy là ký thỏa thuận Trung Lập Lào, đi ngược lại những ý kiến của Eisenhower nói với Tổng thống đắc cử Kennedy.
Theo Nixon
“President Eisenhower believed that Laos was the key domino in southeast Asia. Defending Laos was the major specific action Eisenhower urged to President-elect Kennedy when they met in January 1961. Eisenhower told Kennedy that if Laos were to fall into Communist hands, we would have to write off all Indochina.” (Richard Nixon, ibid., trang 57).
Phải chăng đó là lý do sâu sắc đưa đến sự bất dồng giữa ông Diệm và Harriman?
Thât ra, theo Colby, Harriman khinh ghét từ Tưởng bên Đài Loan, đến Phác bên Đại Hàn, Sarit bên Thái Lan, Phoumi bên Lào và dĩ nhiên Diệm ở Saigon. (William Colby, ibid, trang 121).
Việc làm đầu tiên là Hilsman được sự chấp thuận của tổng thống. Kennedy thay thế đại sứ Nolting bằng Cabot Lodge.
[Luật pháp Hoa kỳ định tất cả các đại sứ Mỹ phải được tổng thống chính thức bổ nhiệm và được Thượng viện phê chuẩn.]
Việc bổ nhiệm Lodge, một đảng viên đảng Cộng Hòa là một điều chưa được làm sáng tỏ. Có thể, Kennedy chỉ muốn dùng Lodge trong mục tiêu lật đổ Ngô Đình Diệm. Và nhiệm vụ ấy có thể là lưỡi dao hai lưỡi làm sụt giảm uy tín đảng Cộng Hòa nếu thất bại.
Nhưng việc có mặt của Đại sứ Lodge ở Sàigon là một báo hiệu một cơn bão chính trị sắp xảy ra.
Lodge trong cuốn sách của ông viết lại lá thư bổ nhiệm của Kennedy như sau:
“In June 1963 President Kennedy asked me to be ambassador to Vietnam and I acceped. I believed that many mistakes had been made since 1945 and that if, in that period, the Indochina question had been wisely handled, the United States need never have gone there.” (Henry Cabot Lodge, The Storm has many eyes. A personnal Narrative. 1973. trang 205.).
Phần lớn những lời tự thuật trong cuốn sách của Cabot Lodge tôi cho đều là những lời dối trá như:
“I was deeply grieved by his death and horrified at the form it took.”“The coup November was essentially a Vietnamse affairs.” “Our policy, under instructions from President Kennedy, was “not to thwart”a coup.” (Henry Cabot Lodge).
Tiếp theo một chuỗi dối trá như
“variously autorized, sanctioned and encouraged the coup.””I did offer President Diem safety under the aegis of the United State and was prepared to give him a asylum in my house, to help him enter a new government as a ceremonial figure, or to leave the country.” (Henry Cabot Lodge).
Và đây là lời nói dối lếu láo cuối cùng:
“The allegation in the Pentagone Papers that in october we cut off aid to Diem in order to give a “green light to the generals” is wrong”. It was done in order to get Diem to strengthen his political position at home by sending brother Nhu out of the country. Far from trying to overthrow President Diem, President Kennedy – I thought very properly-engaged in trying to help him get stronger and the governmant get better.” (Cabot Lodge, Ibid, 208-211).
Gớm thay miệng lưỡi của một con cáo già chính trị bịp bợm và bất nhân vô đạo. Đại sứ Nolting bị thay thế là một mất mát lớn cho ông Diệm trong việc chống lại “nhóm bốn tên”.
Về bức Điện tín 243 ngày 24 tháng 8 đưa đến thảm kịch sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Xem nội dung và nguyên văn và chi tiết hình thành Điện tín 243 của Bộ Ngọai giao gởi cho Cabot Lodge ở p1.
Ngày 26 tháng 8, 1963, Cabot Lodge ra lệnh cho Conein báo cho Trần Thiện Khiêm biết là chính phủ Mỹ bật đèn xanh cho cuộc lật đổ Nhu và có thể cả Diệm… Khiêm đã nhận được tín hiệu và thông báo cho các tướng lãnh khác. Và đến ngày 28 coi như việc lật đổ ông Diêm trong công điện của Hilsman trở thành hiện thực.
Tất cả một chuỗi hiểu lầm đã xảy ra. Sau này tướng Maxwell Taylor tin rằng Ball, Harriman, Hilsman và Forestal là một nhóm chống Diệm đã ngụy tạo ra cái được gọi là “egregious end-run”- một kết thúc quá tồi tệ. Trong khi đó có phản ứng dữ dội của một số nhân vật cao cấp khác chống lại việc lật đổ ông Diệm như các tướng Taylor, McNamara, Lyndon Johnson, John Mc Cone. Chỉ riêng ngoại trưởng Rusk giữ im lặng.
(Tóm tắt sơ lược Stanley Karnoww, Ibid, trang 287-288).
Tóm tắt câu chuyện này, Cabot Lodge đã lợi dụng thời cơ mà có lẽ ông chờ đợi nó đến bất ngờ để đi đến kết thúc lật độ ông Diệm như sau:
“On August 29, 1963, Ambassador Lodge followed up on President Kennedy’s cable with a momentous one of his own, wherein he declared: “We are launched on a course from which there is no respectable turning back: The overthrow of the Diem government. There is no turning back in part because US prestige is already publicly committed to this end in large measure and will become more so as facts leak out. In a more fundamental sense, there is no turning back because there is no possibility, in my view, that the war can be won under a Diem administration”
“[…] Chúng ta bị đưa vào một lộ trình không có đường đáng kể để quay lại: Cuộc lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Không thể quay trở lại một phần bởi vì uy tín của Hoa Kỳ đã cam kết công khai cho mục đích này càng không thể quay đầu khi sự thật bị rò rỉ. Về căn bản, tôi nghĩ, không thể thắng cuộc chiến với chính phủ Diệm.” (Geoffrey Shaw, Ibid., trang 260).
Sau này, Mc George Bundy tóm tắt lại bài học này bằng nhận xét: “Never do business on the week-end”.
- Tướng lãnh Việt Nam
Ở đây, tôi thấy không cần thiết phải giải thích về những toan tính lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm của nhóm tướng lãnh mà chỉ muốn viết vài dòng về tư cách và khả năng của họ sau khi nắm chính quyền.
Trong những hoàn cảnh bất khả kháng, số sĩ quan thời VNCH xuất thân từ nhiều nguồn khác nhau. Một số nhỏ là lính khố xanh, khố đỏ từ thời Pháp thuộc hay là lính Tập được tuyển dụng sang Pháp thời thế chiến II. Đông khá hơn cả, được đào luyện dưới thời Bảo Đại trước 1954.
Tổng thống Diệm đã xử dụng tất cả cái nguồn nhân lực sẵn có và giao cho họ những trọng trách mà thật sự họ chưa đủ khả năng để lãnh nhận.
Nói chung, trình độ còn yếu kém về mọi mặt từ văn hóa đến quân sự, chuyên ngành. Nhiều viên tướng chỉ cùng lắm qua bậc tiểu học hay trung học. Kinh nghiệm chiến trường trong vai trò chỉ huy có thể chỉ tới cấp tiểu đoàn.
Sau này lại được nắm giữ những chức vụ quan trọng nhất như tướng sư đoàn, quân đoàn.
Nếu còn thời Pháp thuộc thì giỏi lắm họ được nâng cấp úy hay tá là cùng. Những thành phần này được chế độ đặc biệt ưu đãi nhất, nhưng lại phản bội.
Họ phải được xếp riêng vào loại phản tướng.
Đã phản một lần thì phản lại miền Nam sau này cũng là điều dễ hiểu.
Đã thế, họ có thể còn thiếu một lý tưởng quốc gia hoặc hiểu biết tạm đủ về chủ nghĩa cộng sản. Một số sau này trở thành cấp tướng, rường cột của quân đội mà lại tỏ ra mất gốc một cách lạ lùng đến mông muội, thiển cận về phán đoán như trường hợp tướng Trần Văn Đôn. Trong lời mở đầu cuốn sách của ông, ông đã dành vinh danh ba người mà đối với ông đã có công đối với miền Nam. Người thứ nhất là Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân. Người thứ hai là tướng De Lattre De Tassigny, vị tướng lãnh duy nhất hiểu Việt Nam (1950). Và cuối cùng thì không ai ngờ được là: Đại sứ Cabot Lodge, “người đã có công xây dựng một miền Nam vững mạnh về quân sự, chính trị và kinh tế.” (Trần Văn Đôn, Les guerres du Vietnam, Paris 1985, trang 8).
[Tuớng Trần Văn Đôn sinh tại Bordeaux, quốc tịch Pháp, con của một địa chủ giàu có ở đồng bằng sông Cửu Long, sang Pháp học y khoa và sinh Đôn ở đó. Đôn sang Pháp học đại học ở HEC và trở thành sĩ quan Pháp khi Đệ nhị Thế chiến bắt đầu, sau đó theo học tại trường Võ bị Saint-Cyr. Về Việt Nam, Đôn là sĩ quan hầu cận (aid-de-camp) của Chuẩn tướng Thực dân Pháp Nguyễn Văn Xuân.]
Trần Văn Đôn đã đề cao Cabot Lodge đến lố bịch. Nếu gọi là công thì chỉ là có công với đám tướng lãnh như Trần Văn Đôn lật đổ ông Diệm.
Còn nói cho cùng, Lodge chỉ là một thứ thực dân, phá nát thể chế miền Nam, gây xáo trộn và hệ quả là nguy cơ sụp đổ miền Nam vào năm 1964.
Hay như nhận xét của trùm mật vụ Colby tiên đoán: “But Colby had been right when he predicted that Ambassador Lodge would run a one-man show.” (Thomas L. Ahern Jr., Ibid., trang 22).
Đối với quan thày thì Trần Văn Đôn bợ đỡ, nhưng đối với đồng đội trong nhóm phản tướng đảo chánh thì dèm pha, tranh công. Tài liệu CIA and the House of Ngo đã ghi lại: Đôn đã dèm pha Khiêm và Khánh. Khiêm là loại người đồng bóng, phù phiếm “flighty” và không tin được “unreltable”. Khánh là loại tuyền chủ nghĩa cơ hội và lường gạt “the complete opportunist.. and highly deceiful”. Còn Đính được đề cao là người kiên quyết trong nhóm tướng lãnh “Group’s stalwart”. (Trích dịch “CIA and the House of Ngo”, trang 189).
Cái giá phải trả sau này của sự chia rẽ như đã thấy là họ đã liên tục có những cuộc “chỉnh lý”.
Cái mà sau này, người ta gọi một cách mỉa mai là “ Ba năm xáo trộn”.
Phần khác quan trọng hơn cả, có thể họ thiếu tư cách, thiếu đạo đức, thiếu chính nghĩa mà người ta có thể gọi là loại tướng hèn. Và có thể đúng như lời nhận xét của cụ Trần Văn Hương đã nhận xét:
“The top generals who decided to murder Diem and his brother were scared to death. The generals knew very well that having no talent, no moral virtues, no political support whatsoever, they could not prevent a spectacular comeback of the president and Mr. Nhu if they were alive.”
(Geoffrey Shaw, Ibid, trang 268)
Nhìn gương mặt những tướng lãnh bất tài ấy như nhìn một đàn cừu ngu xuẩn như Đỗ Mậu, Lê văn Nghiêm..và nhiều tướng khác như Tôn Thất Đính..vv
. Lật xong ông Diệm, họ không có một chương trình, một kế hoạch và phải dựa vào chính phủ Mỹ.
Nói ra chỉ thêm nhục cho đất nước mình.
Tài liệu về tướng lãnh Việt Nam đã được chứng minh trong CIA and the Generals ghi lại như sau bằng những nhận xét khi bỉ họ mà tôi thấy không cần nói thêm một lời nào:
“Indeed, the generals explicity disclaimed having any plans for this, twice telling their CIA contacts that they wanted American guidance for the post coup period. (…) An ill-led army and a sclerotic bureaucracy, both still practicing the authoritarian style of their decayed dynastic and colonial predecessors, presided over a body politic divided along religious, erhnic and class lines,”(…) By late 1964, South Vietnam was close to collapse”. (Thomas L. Ahern. Jr., CIA and the Generals. Covert support to Military Government in South Viet Nam. trang 2-3).
Thật vậy, nói chi cho rác lời như trường hợp Đỗ Mậu. Sau 1963, Đỗ Mậu được đề cử trong vai trò Phó thủ tướng đặc trách về Văn Hóa mà trình độ cùng lắm vừa qua khỏi bậc tiểu học.
[Theo hồi ký, Đỗ Mậu cho biết ông phải bỏ học vì hoàn cảnh gia đình khi đang học lớp đệ tứ (lớp 4 trung học). Ông thường tự nhận mình là “kẻ thất học quê mùa” )]
Cái giá của việc lật đổ ông Diệm của tướng lãnh là chính phủ Mỹ phải tìm một lối ra cho Việt Nam bằng cách can thiệp trực tiếp vào miền Nam. Tháng 3,1965, Thủy Quân lục chiến đã đổ bộ vào Đà Nẵng. Tổng số quân đội Mỹ tác chiến ở miền Nam năm 1966 lên 285.000 người.
Câu hỏi cuối cùng cho họ, tại sao lật ông Diệm lại cần có bàn tay chính phủ Mỹ? Tự điều đó cho thấy họ không có chính nghĩa, đánh mất chủ quyền như sau này.
Gọi đó là một cuộc cách mạng 1-1963 là một điều nham nhở! Cách mạng ở chỗ nào?
Ngoài những nhân vật tướng tá đóng góp vào việc lật ông Diệm-Nhu ở trên. Chúng ta cũng cần công bằng với lịch sử như các sĩ quan sau đây:
- Đi học tập mút mùa như các sĩ quan Lê Minh Đảo, Trần Văn Khôi, Đỗ Kế Giai, Lê Văn Thân.
- Tuẫn tiết như đại tá Hồ Ngọc Cẩn ở Chương Thiện.
- Hay “ sinh vi tướng, tử Vi thần” như các tướng Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng...
- CIA và Phật giáo Việt Nam qua vai trò của Trí Quang
Vai trò của Trí Quang trong một số bài viết cùng tác giả : Nhân cái chết của tổng thống. Trí Quang(17-11). Mâu thuẫn Trí Quang(22-11) và Thích Trí Quang ông là ai? (18-12 và 16-12).
Xin nhắc lại ở đây là tham vọng của Trí Quang ngay từ khi phát động phong trào Phật giáo tranh đấu đã có hàm ý lật đổ chế độ mặc dầu ông không công nhận, nhưng cũng không phủ nhận ý đồ lật đổ Diệm. Và chỉ hai ngày sau khi phát dộng phong trào tranh đấu Phật giáo thì CIA đã vào cuộc và tiếp xúc ngay với Thích Trí Quang.
Theo tài liệu CIA ghi lại:
“On 8 may, Buddhist crowds in Hue rioted over alleged religious discrimination by the government and launched the movement that six months later brought down the Diem regime. Within two days, the Station had officers in touch with dissident Buddhist leader Tri Quang. After three-hour meeting they described him as self-confident, dominating, commited, and slippery. But able to make a joke and take one of his own expense. He would neither admid nor deny that his goal was to destroy Diem. Station officer Caroll Ingram, hoping to learn more about his intentions, maintained periodic contact with him at least until early September.” (Thomas L. Ahern Jr., CIA and the House of Ngo, trang 166).
Nhận xét của Nixon là không hề có Phật tử nào bị bắt chỉ vì là một Phật tử thuần thành:
“No Buddhist was ever arrested for praticing on his religion, and not a single piece of evidence has ever produced to show that Diem repressed Buddhist on the basis of religion. (…) Anyone who glanced in the door could see that Xa Loi pagoda was not a house of worship but the political headquarters of a movement intent on bringing down Diêm’s government.” (Richard Nixon. Ibid., trang 65).
Quả thực như Nixon nhận xét, đi qua chùa Xá Lợi những ngày ấy, con đường bên ngoài vắng tanh, không mấy ai dám qua lại. Bên trong, loa phóng thanh phát ra cực mạnh suốt ngày đêm, hết kinh kệ đến bài thuyêt pháp hoặc tuyên truyền chống chính phủ ra rả.
Đứng về mặt đạo đức, ai cho phép Trí Quang dẫn dắt các tăng ni Phật tử vào con đường tự thiêu, với mục đích gì? Dù để tôn vinh một lý tưởng? Hay chỉ với mục đích để Phật giáo được nâng lên hàng đầu? Hay chỉ để cho lá cờ Phật giáo được treo cao hơn?
Nixon ghi lại:
“Thich Trí Quang, a Buddhist priest who practiced his politics more devoutly than his religion and who was eagert to find fault with the Catholic President, delivered a bristling antigovenment tirade in his pagoda during religious ceremony.”
“On one occasion, a reporter asked Tri Quang whether it was ethical to induce young monks to commit suicide in so painful a manner just to be able to fly the Buddhist flag a notch or two higher. Tri Quang shrugged his shoulders and said with perfect candor”in a revolution many things must be done.” (Nixon. Ibid, trang 63, 67).
Kết luận
Những gì CIA đã làm tại Việt Nam thì họ cũng đã làm như thế trên toàn thế giới bất chấp đến chủ quyền của nước bạn hay thù, dẫm đạp lên luật pháp cũng như đạo đức con người.
Ai cho phép họ ngang nhiên có cái quyền lật đổ một chính quyền hợp pháp, hợp hiến chỉ vì không làm theo đúng chính sách, đường lối của Mỹ?
Món hàng dân chủ nhập cảng vào Việt Nam một cách áp đặt là một trong những sai lầm của chính phủ Mỹ tại Việt Nam cũng như tại nhiều nước khác trên thế giới?
Nước Mỹ mất bao nhiêu năm để tiến tới một bước dài về dân chủ trong khi đó đòi Việt Nam phải thực thi dân chủ và các quyền tự do khác ngay từ những ngày đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa?
Trong khi viên đá đầu tiên xây nền móng vững chắc cho chế độ như ưu tiên hàng đầu của ông Diệm là ổn định, ổn định về mọi mặt.
Phải chăng ông Diệm đã đi đúng hướng mà ông đã chọn khi về nắm chính quyền? Người Mỹ đã không cho ông Diệm cơ hội tiến hành. Việc lật đổ ông Diệm không phải chỉ là cá nhân ông Diệm mà còn là thể chế VNCH nói chung sụp đổ theo.
Cái mất là tính chính danh (legacy) của chế độ ấy.
Như Nixon nhận định một cách vững chắc như sau,
“When we arrogated to ourselves the right to choose South Vietnam’s government, we also assumed responsibility for íts fate. (…) Now we would reap a bitter harvest.” (Nixon, Ibid. 72-73).
Và người ta chỉ dần dần hiểu và thấy rằng chỉ khi ông Diệm không còn nữa thì tính chính danh mới được sáng tỏ và uy quyền quốc gia là điều tối thượng không thể mặc cả và nhân nhượng.
Còn lại những người được Mỹ đứng đằng sau giật dây như bọn nhà báo Mỹ, tướng lãnh, Phật giáo Trí Quang đều chỉ có chung một mục đich là: Chủ nghĩa cơ hội như Nixon nhận định: “Opportunism was the only common ideal.” (Nixon, Ibid., trang 71)
Việc lật đổ Diệm chẳng những là một sai lầm về chính trị, pháp lý mà còn là một vấn đề đạo đức nữa. Đó là một thời kỳ đáng xấu hổ cho chính phủ Mỹ.
Phần tổng thống Johnson thì hoàn toàn chống đối lại việc lật đổ chế độ và cho rằng đó là lỗi lầm lớn nhất của chính phủ Mỹ ở Việt Nam. Và kể từ sau cái chết của ông Diệm thì chính phủ Mỹ sa lầy ở Việt Nam kể từ năm 1966. Năm 1966, khi ông lên làm tổng thống, trong một lần điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthy, ông tiết lộ sự thật về những gì tổng thống. Kennedy đã làm cho tổng thống. Diệm năm 1963:
Johnson: “[That] he was corrupt and he ought to be killed. So we killed him. We all got together and got a goddamn bunch of thugs and we went in and assassinated him. Now, we’ve really had no political stability since then.” (McCarthy: “Yeah.”).
“Johnson Conversation with Eugene McSarthy”, February I, 1966, tape WH6602,01, conversation 9602, from President Recordings of Lyndon B. Johnson, Miller center, University o f Virginia, http: // millercenter.org/presidentialrecordings/Ibj-wh6602.01-9601. (Geofrey Shaw, ibid, trang 269)
Tổng thống. Johnson nói “chúng ta đã giết ông ấy. Chúng ta xúm lại dùng một bọn côn đồ chết tiệt ám sát ông ấy…”
Đó là lời nguyền rủa nặng nhất.
Bài này như một nhắn gửi đến những ai còn quan tâm đến Việt Nam, đặc biệt các cựu sĩ quan, hậu duệ và họ hàng có dính dáng đến việc ám sát ông Diệm, cũng như một số Phật giáo đồ từng mù quáng theo gót Trí Quang hãy can đảm nhìn sự thật về những việc họ đã làm và tập biết im lặng, cúi đầu nhận trách nhiệm.
Nhận xét
Đăng nhận xét