Ba dòng nước mắt
BA DÒNG NƯỚC MẮT
Tác giả: Phạm Tín An Ninh
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận được thư Bình, thằng bạn thân tình từ
thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới
được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31.
Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
“Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm
một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe
mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích
hợp cho những người cần một nơi để chữa trị những vết thương khó lành được
trong lòng.
Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải
quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày
giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt”.
Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ
giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình.
Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp
lại, tha hồ mà kể chuyện xưa.
Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một
nơi xa tít mịt mùng?
Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau
tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.
Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường
làng, rồi lên trường huyện.
Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần “inh”. Trong lớp bạn bè thường gọi
bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang
Trung Đại Đế, cái nơi nổi tiếng “con gái cầm roi đi quyền” đó nó ra sao.
Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của
những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám
con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía
sau hè.
Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp
nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân.
Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá.
Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài Gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang
lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng
rủ nhau vào lính.
Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi
công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần
tượng của bọn tôi từ lâu lắm.
Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại
ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không
vui.
Vì kể từ hôm nay, không còn “chúng mình ba đứa” nữa. Tôi tiễn hai thằng đến
Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn
gói vào Sài Gòn học tiếp.
Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần
tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc
đứng bên cạnh một chiếc F5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó.
Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng
ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.
Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu
động cho quân đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có
mặt.
Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi
bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích
delta trong các vùng địch.
Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày
phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng
là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang.
Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ
được một tuần “anh về với em rồi anh lại đi”. Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều
mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc
được trên các tần số không lục.
Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng
Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn
thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt
lắm.
Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn
nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận
động.
Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà
phía trước “thăm dân cho biết sự tình”, không ngờ “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”,
đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà.
Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm
phụ rể.
Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở
Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở
thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận.
Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi
và chai rượu đế.
Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch
bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra,
nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị.
Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai
chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc
tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc.
Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn
kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường
ba hoa với đám bạn bè.
Chỉ có thằng Bình là “số đẻ bọc điều”. Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng
vẫn quanh quẩn ở Biên Hòa, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói.
Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn
nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua
dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng
đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo “tán”, sau các buổi tan
trường.
Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một
vài hôm.
Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, Phi Đoàn Thần Tượng ở Nha Trang
có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot
đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi
chợ.
Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường.
Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ
đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà
giàu.
Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên
ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành.
Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng
rất tự hào do chính tay mình nấu: Cháo trắng ăn với hột vịt muối.
Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao “đừng nhìn
nhau mà cùng nhìn về một hướng” như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê
rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.
Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám
cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate.
Khách khứa lên đến trăm người. Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn
tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi “xác thân đã nhuốm mùi trần tục”, một vợ mấy
con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón
khách.
Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám
cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu
xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển.
Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói “lắm mối tối nằm không”, đến ngày mất
nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.
Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang
rồi Biên Hòa.
Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với
bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau
như cái thời còn đi học.
Mỵ Khê, bà xã của Bình, cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá
lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hòa lẫn tiếng khóc của trẻ thơ.
Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong
giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.
Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng
cầm chân địch hơn một tuần.
Biên Hòa bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà
Nóc tránh pháo.
Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một
thằng bạn cùng khóa, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về
làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.
Ngày 29/4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập,
cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn
ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển.
Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân
một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường.
Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội,
bảo Bình thu xếp gấp về Sài Gòn để kịp đưa vợ con đi.
Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa
con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là Vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của
nó được đặt dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam.
Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.
Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày, thì biết tin Sài Gòn thất thủ.
Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang
Thái Lan.
Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện “học tập cải tạo” bất ngờ gặp Bình.
Trong cái cảnh “nước mất nhà tan” này mà có được một người bạn thân thì cũng
vơi được nỗi buồn.
Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng
quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em.
Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo
kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống
trên phi cơ.
Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc
mỗi thằng bị chia mỗi ngả.
Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô
em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với
những người khác trong vùng.
Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của
vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.
Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên.
Trong trại tị nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin
Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ
chức vượt biên.
Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài
tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó
và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.
Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina, lúc 9 giờ rưỡi tối.
Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ.
Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang
vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế “ứng chiến” để
đối phó với những điều bất trắc.
Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng
khóa chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định,
nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box.
Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy
nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.
Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của
Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng
nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn
còn hàng ria mép.
Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho
biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng
Bình chừng hai mươi phút lái xe.
– Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác
đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng
cháu nói bọn nó nghe.
– Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trước khi gặp vợ chồng Bình.
Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử
sao cho thích hợp.
Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút
sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á Châu.
– Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.
Ông bảo người con gái đứng trong quầy mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà
cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ
dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự:
– Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định
đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình, sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân
một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông
cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè. Nó hết lòng lo
lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba
ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình
thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quẩn.
Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang
Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì bác mà gây nên cớ sự.
Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má
của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn
cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết
trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào.
Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu
năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu
Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó.
Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười
năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống,
chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết.
Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó
giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai bác
gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.
Tôi đưa tay xin ngưng lời bác:
– Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác?
– Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê
sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi “mu” qua Hawaii.
Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói
chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ
không buồn.
Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã
xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ
Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè.
Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.
– Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác?
– Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó
xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư.
Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì
trong đó.
Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn
cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ
bác.
Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông
điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn
tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.
Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn
miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó.
Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với
gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.
Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều
không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi.
Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự
thâu đêm.
Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự:
– Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ
sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc
về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới
này.
Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một
gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người.
Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ
này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh
hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.
Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao
cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng.
Mong nó trở về đây.
Cháu Lina, con gái của tao, cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn
xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã
hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận
một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống.
– Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao?
– Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại
cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.
– Bây giờ mày tính sao? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày?
– Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii
gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.
– Còn mày thì sao?
– Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Na Uy ở với mày là phúc cho tao.
Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao
lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu
Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.
Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những giông tố
trong đời.
Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy
dài trên má.
Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không
mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ ‘hello’, mà nó đã thường xài từ lúc
còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.
Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang
hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn
ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.
Sáng nay, Chủ Nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn
đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa
kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu dây giọng nói quen thuộc của thằng Định:
– Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.
Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình:
– Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ
chồng thằng Định đây.
Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu
Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận.
Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của người cùng huyết thống, nên tao
theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu.
Bác sĩ bên này giỏi thật. Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi.
Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở
cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho
tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày
trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn
có nhiều thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi
tao cho vui.
Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà:
– Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối.
Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen
vào:
– Hello, Ninh! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới
bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.
Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều
gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung
linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ.
Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận
chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.
Phạm Tín An Ninh
Nhận xét
Đăng nhận xét