CHƯƠNG TRÌNH JANE HTD – Nov 11 - 21 – NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA TRONG CUỘC CHIẾN
Anh ở đồn biên giới trông về một khung trời... |
CHƯƠNG TRÌNH JANE HTD – Nov 11- 21 –
NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA TRONG CUỘC CHIẾN
Kính thưa quí vị,
Sau
30 tháng 4 năm 1975, ban đầu với số lượng gần 500 000 người Việt tỵ nạn Cộng
Sản đang sinh sống tại Mỹ, và khoảng 100 000 người tạm cư ở các quốc gia Tự Do
Âu – Á… Ngày nay thì số người Việt định cư tại hải ngoại đã có khoảng gần 5 000
000 (năm triệu) người, phần đông là: Dân - Quân - Cán - Chính miền Nam với thân
nhân gia đình đã có nhiều chứng thật về thảm trạng từ Cộng Sản Bắc Việt gây ra
. Do vậy, cũng từ buổi đầu đặt chân tới xứ sở tự do thì Cộng Đồng Người Việt Tỵ
Nạn Cộng Sản và sinh hoạt báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình đã hình
thành và sinh hoạt, phát triển rất năng động với số lượng và phẩm chất đi khắp
nơi trên thế giới như trăm hoa đua nở khoe sắc thắm, trội vượt so với những
cộng đồng khác đã định cư trước chúng ta rất nhiều. Dĩ nhiên loại báo chí Việt
Cộng không thể phát hành và tiêu thụ tại hải ngoại, cho dù chúng đã có
xuất bản tới hơn 800 tờ báo phát hành trong nước, bị đồng bào Việt gọi chỉ
danh là “báo đĩ” với những cán bộ cầm bút là “đĩ bút”!
Và
cũng từ sau ngày 30 – 4 – 1975, Cộng Đồng Người Việt Tự Do chúng ta đã hình
thành một tổng hợp Lịch Sử Ngàn Người Viết, với những cây viết chuyên nghiệp,
lẫn không chuyên nghiệp. Sự hưởng ứng đóng góp bài viết với nét đặc biệt là:
Người thật, việc thật, chuyện thật, văn chương thật, có ít điều hư cấu không
như các tác phẩm tiểu thuyết, thi ca tưởng tượng của những “nhà văn, nhà thơ”
thành danh thời qua, bọn nhà văn, nhà báo chuyên mặc áo thụng loè loẹt vái lạy
nhau trên những “văn đàn” rồi tiệc tùng ra mắt loại “tác phẩm” thơ, văn tiểu
thuyết dành cho thư phòng phụ nữ, không tư tưởng, bất tự tri thức và chung cuộc
hầu hết chỉ là thứ bã thư có ít giá trị văn học !
Trong số
nhà văn mới cầm bút này có nhiều người vốn ở trong tập thể Lính và họ đã
cầm bút viết:
- Viết
với máu và nước mắt của thân phận chính mình và bạn đồng tù…!
- Viết
với hồn thiêng bạn bè đồng ngũ còn vướng vít đâu đây, nhắc nhở hãy lên tiếng
cho nhân loại thức tỉnh hiểm họa Cộng Sản, đồng nghĩa với quỉ dữ và địa ngục có
thật trên trần gian và ngay chính bản thân họ là minh chứng.
-Viết là
trần tình, giải bày, ghi lại dấu ấn của bao nhiêu ân tình Huynh Đệ Chi
Binh chở che, đùm bọc với nhau trong cơn hoạn nạn và ngạo nghễ thay hãy viết kể
lại, truyền lại những Thiên Anh Hùng Ca của toàn thể Quân Dân miền Nam đã chiến
đấu, và chiến thắng oanh liệt với Bắc Quân trên khắp mặt trận để Bảo Quốc - An
Dân trong suốt quảng thời gian từ 1954 - 1975.
-Viết và
phổ biến tới quảng đại quần chúng là đóng góp cho kho tàng Lịch Sử Việt Nam ở
giai đoạn bi hùng tráng trong cuộc chiến Quốc - Cộng, và được trân trọng ghi
chép, gìn giữ cẩn thận tại hải ngoại bởi người Việt Tỵ Nạn Chính Trị. Đây cũng chính là khởi điểm hình
thành nền Văn Chương Tự Do của Người Việt Hải Ngoại mà bọn Việt Cộng không thể
nào huỷ diệt được…? Trong đó phải nói tới Sinh Hoạt Âm Nhạc với nhiều Chủ
Đề Lính rất có giá trị Văn Hóa - Nghệ Thuật đáng trân trọng.
Trong
đêm nay Jane xin cống hiến với quí Cô Chú Bác và Anh Chị Em một chủ đề NGƯỜI
LÍNH ViệT NAM CỘNG HÒA TRONG CUỘC CHIẾN ở giai đoạn 1954 – 1975 qua trích đoạn
tiêu biểu để “nói” lên tính chất thế hệ thanh niên miền Nam, đời sống quân ngũ,
chiến đấu với kẻ thù trên khắp mặt trận gian khổ và hiểm nguy từng phút, từng
giờ trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật và đóa hoa tình yêu nở đẹp trong tâm hồn vốn
là ân sũng của thượng đế ban cho con người hữu tình biết thưởng thức cái đẹp và
yêu chết cả đời, chứ không chỉ chết một nửa tâm hồn mà thôi !
Jane
tuyển chọn trong số nhiều bài viết của nhà văn Nguyễn Tường Tuấn mà chúng
tôi HOA TỰ DO đã nhận được và trình bày với tinh thần chân và mộc như những
dòng văn chương thật đang là và không lời luận bàn tác phẩm.
Năm 1969 khi mới ra trường, tôi
tình nguyện xin vào Trinh Sát 7 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh, nhưng lúc đó đơn vị
đầy đủ sĩ quan, và được đưa ra Đại Đội 11, Tiểu Đoàn 3/7, Đại Uý Trần
Lương Tín, khoá 20 Võ Bị Quốc Gia làm Tiểu Đoàn Trưởng, đóng tại Phú Hoà
Đông, Bình Dương. Ba tháng sau, chính thức chuyển về Trinh Sát. Lúc đó,
Trung Uý Nguyễn Văn Minh, khoá 18 Thủ Đức làm Đại Đội Trưởng “95”, và
Thiếu Uý Đặng Văn Tuấn, khoá 24 Thủ Đức, Đại Đội Phó “59”. Trước năm 1972,
Trung Uý Minh, lên Đại Uý làm Tiểu Đoàn Phó, và nhận được sự vụ lệnh
thuyên chuyển về Tiểu Khu, ông bàn giao chức vụ, xách ba lô đón trực thăng
về Lai Khê, lấy vài ngày phép. Thương binh lúc đó quá nhiều, bãi đáp trực thăng
ngay trên Quốc Lộ 13 bị pháo binh Việt Cộng bắn liên tục, cho nên việc tản
thương không dễ dàng. Đại Uý Nguyễn Văn Minh quyết định không lên máy bay,
dành chỗ cho thương binh. Ông quay về ngủ chung tại tuyến phòng thủ của Trinh
Sát 7 chúng tôi. Trong căn hầm chỉ huy lúc đó di tôi chỉ huy thay cho Đại
Uý Tuấn ra làm Tiểu Đoàn Phó. Trong đêm Thứ năm 11 tháng 5 năm 1972 Cộng quân
pháo kích như mưa sa, bão táp, 12,000 đạn pháo binh 130 ly nã vào diện tích
4km vuông An Lộc, vốn đã hoang tàn đổ nát, không một bức tường nào cao hơn
nửa thước đứng vững. Khói, bụi và mùi thuốc súng quyện vào nhau trở thành
một thứ độc hại vô cùng. Trong căn hầm nhỏ, tụi anh chen chúc, lớp căng
võng nằm trên, người nằm dưới sàn, toàn những anh lính cả tuần chưa tắm,
mùi mồ hôi chua nồng! Khi cộng sản ngưng pháo kích, cũng là lúc chúng tấn công,
tất cả ra khỏi hầm sẵn sàng chiến đấu. Súng bắn chiến xa M72 được các toán
hai người một chia nhau án ngữ các ngã tư, đường hẻm, để chuẩn bị đón “con
cái bác và đảng”. Có một người không ra khỏi hầm, Đại Uý Nguyễn Văn Minh,
người anh cả của Đại Đội, anh ra đi vì một mảnh đạn pháo, chui qua lỗ châu
mai và cắm vào sống mũi! Nếu Đại Uý Minh lên trực thăng tản thương bay về
Lai Khê, anh đã không chết, người cao lớn, mạnh khoẻ, và chưa hề bị thương.
Nhưng Nguyễn Văn Minh không hèn, anh ở lại cùng đồng đội, và mang theo DNA
4372 về cõi trời. Người lính đêm qua hút thuốc bị anh la, sáng hôm sau vừa
khóc vừa đào huyệt mộ cho anh, cậu ta không quên cắm lên mộ một điếu
thuốc Quân Tiếp Vụ thay nén nhang tiễn Đại bàng về chốn bình yên! Chúng
tôi, lớp đàn em, xin vĩnh biệt Huynh Trưởng.
Đại Đội 7/5 Trinh Sát khi được trực thăng vận từ
Lai Khê đến một cánh rừng gần Lộc Ninh, đơn vị chúng tôi có hơn một trăm chiến
binh, không kể hậu cứ. Đến tháng 6/1972 chỉ còn 40 người, tính luôn cả các binh
sĩ được bổ sung sau này, có nghĩa là lính Trinh Sát chính gốc còn lại trên dưới
20. Hơn hai phần ba Đại Đội đã nằm xuống tại An Lộc, từ Phú Lố đến trận chiến
chiếm lại nhà tù An Lộc đã bị Cộng quân chiếm giữ. Đại Uý "Tuấn râu"
được 44 đưa qua làm Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 3/7, mang danh là Tiểu Đoàn,
nhưng lúc đó cao lắm thu lại chỉ còn khoảng một Đại Đội, tính luôn cả những
thương binh không có phương tiện tản thương. "Tuấn râu" đi, thì
"Tuấn nhô" lên, tôi nhận chức vụ đầu đàn Trinh Sát 7/5 và ngày đầu
tiên kiểm điểm lại quân số Đại Đội chỉ còn trên dưới 20 tay súng chưa bị đui
què, sứt mẻ, hoặc chỉ bị thương nhẹ! Rất may, toàn là lính cũ, gắn bó với nhau
qua nhiều thử thách từ trận Snoul, qua Bù Gia Mập, Đồng Xoài, Phước Long, Chiến
khu C, Phú Hoà Đông ... "Có bao nhiêu, chơi bấy nhiêu 95"! Tôi
cảm động khi nghe các chiến binh dưới quyền khuyến khích bằng câu nói đơn giản
như thế, không cần phải đao to búa lớn làm chi cho mệt. Người lính Việt
Nam Cộng Hòa chiến đấu vì non sông, vì đất nước, không làm tay sai cho bất cứ
một "đảng khốn nạn" nào cả. Người dân miền Nam cũng chẳng cần thằng
"lãnh tụ" nào để đời đời biết ơn. Chúng tôi sống thẳng lưng, cho đến
khi nằm xuống.
Mỗi năm khi mùa Giáng Sinh trở về, Sài Gòn và toàn
miền Nam từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau đâu đâu cũng khoác lên bộ mặt mới, dù
có theo đạo Thiên Chúa hay không, mọi người đều chia sẻ chung một niềm vui
trong ngày Chúa sinh ra đời… Chuyện tình của em và tôi, cô bé tuổi 20 và anh
chàng lính ngoài mặt trận đã có những kỷ niệm đẹp, gắn bó với đêm Giáng
Sinh. Em làm ở bưu điện Sài Gòn chỉ cách Nhà thờ Đức Bà một con đường, cô
bé rất ngoan đạo, mỗi sáng đều vào nhà thờ đọc kinh trước khi đến sở. Từ ngày
quen nhau, em lại càng siêng năng cầu nguyện hơn, xin Thiên Chúa luôn che
chở và phù hộ cho anh chàng "lính" của em. Dạo phố bên
anh với quân phục tác chiến và giầy trận bạc mầu, em chỉ biết ngượng ngập
nhưng hãnh diện vô cùng. Em có biết đâu, quân trường huấn luyện cho các
anh như thế đó. Khi ra phố, dù còn trong quân trường hay đã ra đơn vị, người
lính Việt Nam Cộng Hoà luôn luôn giữ kỷ cương quân đội, quần áo phải ngay
thẳng không xốc xếch, tóc tai cắt ngắn… Sài Gòn đẹp lắm em nhỉ? Những buổi
chiều cuối tuần, hôm nào thích ngồi máy lạnh thì có cả chục nhà hàng,
nhưng anh chọn Givral và Brodard là hai nơi đưa em vào, Givral thức ăn
ngon, còn kem Brodard thì không chê vào đâu được, Pôle Nord ngay góc
thương xá Tax cũng tạm được, nhưng nếu không còn bàn trống ngay gần đường thì
mất vui, mất thú ngắm những tà áo Sài Gòn! Hoặc là đưa em vào thương xá
Tax, hay Eden sắm một chiếc áo dài cho cô bé. Có lần em
hỏi, bộ lương lính các anh nhiều lắm sao? Sự thật không như vậy, nhưng em ơi
một anh sĩ quan tác chiến, độc thân, vợ con không có, chó mèo cũng không, nằm
rừng hai ba tháng thì số lương để dành đó cũng thừa đủ để chúng mình vui vài
ngày phép rồi! Lính mà em! Từ đó, chúng mình có một cái hẹn là anh
sẽ về bên em mỗi đêm Giáng Sinh, điều này không dễ đâu, làm Đại Đội Trưởng
Trinh Sát xin cấp trên đi phép cả một vấn đề, chưa nói đến lại chọn những
ngày lễ như Giáng Sinh hay Tết. Sau trận Tết Mậu thân 1968, Quân Đội Việt Nam
Cộng Hoà đều cắm trại đặc biệt vào những ngày này, anh đã phải xin phép
trước cả tháng, năn nỉ chỉ xin một buổi tối Giáng Sinh, có nghĩa là 48 giờ
phép cả đi lẫn về. Có lẽ nhờ lời cầu nguyện của em nên chúng mình đã có bên
nhau đêm Giáng sinh đầu tiên kể từ ngày yêu nhau. Giáng Sinh 1974,
Sài Gòn vẫn còn "giới nghiêm" những con đường chung quanh Vương Cung
Thánh Đường tràn ngập ánh sáng, treo đèn kết hoa. Anh đã mặc quần áo dân
sự đưa em đi dạo phố.
- Lạy Chúa tôi! Đi lễ nhà thờ mà anh đem theo súng
làm gì vậy?
-Chúa bảo anh đấy!
Niềm vui của người chiến binh VNCH là có một tình
yêu đơm hoa kết trái trên hoang tàn đổ nát của chiến tranh. Có một địa chỉ
để gửi trái tim về sưởi ấm, em và hằng triệu thiếu nữ miền Nam chính là địa chỉ
an lành, thiên thu của tụi anh. Thật sự anh không ngờ lại có giây phút hạnh
phúc như thế? Nhà văn Nga, LeoTolstoy, nổi tiếng với tác phẩm “Chiến
Tranh Và Hoà Bình” (War and Peace), tuổi trẻ Việt Nam Cộng Hòa như anh
đây chỉ có Chiến Tranh và Tình Yêu (War and Love.) Chúng ta chưa bao giờ
biết hoà bình! Thôi thì để tình yêu ôm ấp, vỗ về cho quên đi chiến tranh! Mà
đúng như thế, khi chúng anh ngã ngựa, các người vợ lính trong đó có em đâu
bao giờ bỏ chồng? Còn tình yêu nào cao thượng hơn thế? Miền Bắc, chủ nghĩa
xã hội, ngàn năm sau cũng không thể nào có một thế hệ chung tình trong đau
thương, nghèo khó, như những phụ nữ trong miền Nam chúng ta.
Những ngày cuối năm 1974, chiến tranh trở nên khốc
liệt. Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà một mặt phải đương đầu với Việt Cộng tại
chiến trường với vũ khí, đạn dược được Trung Cộng và Nga Sô cung cấp vô giới
hạn. Trong khi đó, đồng minh Hoa Kỳ, tàn nhẫn cắt giảm mọi nguồn quân
viện. Đơn vị đi hành quân phải đếm từng viên đạn, sẽ không còn trực thăng
tiếp tế giữa rừng. Thương binh tử sĩ sẽ không có máy bay tản thương, tất cả
gồng gánh nhau mang về, đạn pháo binh chỉ có cấp Tư lệnh Sư đoàn mới có
quyền cho bắn 5 quả! Quốc Hội Mỹ từ chối viện trợ $300 triệu USD quân
viện! Tên Thượng nghị sĩ Joe Biden khốn nạn tuyên bố “Không bỏ ra một dollar để đón
người tỵ nạn Việt Nam…”. Miền
Nam Việt Nam chính thức bị đồng minh Hoa Kỳ bức tử!
Làm sao
người lính đối đầu với quân thù tại mặt trận lại phải đếm từng viên đạn bắn đi?
Đánh nhau với Việt Cộng đâu phải phim Cowboy miền Viễn Tây bắn hết đạn rồi
thì chắp tay đầu hàng quân thù, lạy chúng, hay quăng súng bỏ chạy?
Jane xin
ngưng trích đoạn trong tác phẩm Chiến Tranh – Thân Phận – Tình Yêu của Tác Giả
Nguyễn Tường Tuấn và trân trọng cám ơn cũng như giới thiệu Nhà Văn Quân Đội
Việt Nam Cộng Hòa tài hoa tới đồng bào Việt trong và ngoài nước.
Jane HOA TỰ DO
Nhận xét
Đăng nhận xét