PHÓNG SỰ ĐIỀU TRA VỀ THUỐC TÂY: BÁN BỆNH
PHÓNG SỰ ĐIỀU TRA VỀ THUỐC TÂY: BÁN BỆNH
Tác giả: BS NGUYỄN THƯỢNG CHÁNH, DVM
Nguồn: NGƯỜI PHƯƠNG NAM
BÁN BỆNH-BS NGUYỄN THƯỢNG VŨ
http://vietlist.us/SUB_Health/suckhoe2010042000.shtml
Một bài sưu tầm rất giá trị và có ích cho người đọc! Mong quí vị bỏ chút thì giờ để đọc cho biết vì có thể giúp cho cá nhân mình. Cám ơn BS Nguyễn Thượng Chánh, tác giả bài viết.
<0><0><0>
“Les
vendeurs de maladies” là một tựa đề trong thiên phóng sự Cash Investigation do
nhà báo Pháp Elise Lucet, TV France 2 thực hiện và được trình chiếu năm 2012 và
2013.(tại Canada, đài TV5)
Phóng
sự điều tra (journal d’enquête) tố cáo một số đại công ty dược phẩm cố tình
“tạo bệnh mới” để bán thuốc.
Người
gõ xin phỏng dịch ra những ý chánh trong cuốn phim.
Video:
LES VENDEURS DE MALADIES - FR2 (1.31 hrs)-nói tiếng Pháp
http://www.youtube.com/watch?v=fgbz8LM0Zbo
Nguồn
tham khảo chánh: TV France 2 và báo Le Nouvel Observateur
LES
VENDEURS DE MALADIES - FR2
(Photo
Vietbao.com http://vietbao.com/a220742/pfizer-doi-mua-hang-duoc-astrazeneca)
Pharmaceutical
Industry Profile(Canada)
http://www.ic.gc.ca/eic/site/lsg-pdsv.nsf/eng/h_hn01703.html
“From
2001 to 2013, total pharmaceutical sales in Canada have almost doubled to $21.6
billion, with 89 percent sold to retail drug stores and 11 percent sold to
hospitals. Governments account for 42 percent of drug expenditures and private
payers the remaining 58 percent (private coverage and individuals).”
<0><0><0>
Các
nhà bào chế cố tình “tạo ra” ra một bệnh lý (pathologie) phù hợp với phân tử
(molécule) mà họ vừa tìm ra được mặc dù đôi khi món thuốc mới nầy có những phản
ứng phụ không thể tránh khỏi được.
Ròng
rã trong thời gian 6 tháng, nhóm Cash Investigation đã điều tra về lề lối làm
ăn của một số nhà tài phiệt lớn trong ngành dược phẩm và họ đã phải giật mình
trước những điều khám phá ra: “Từ 15 năm qua, các nhà bào chế
lớn đã tạo (façonner) ra nhiều bệnh mới để bán thêm được nhiều thuốc”.
Bệnh
lý giả tạo, hội chứng tưởng tượng…Lề lối làm ăn vô lương tâm kiểu nầy có hại vô
cùng cho sức khoẻ bệnh nhân. Thuốc mới chứa đầy phản ứng phụ nguy hiểm mà nhà
sản xuất cố tình lờ đi.
Đây
là một cuộc điều tra vô tiền khoáng hậu của các nhà báo Pháp. Họ đã dám vuốt
râu hùm để tìm sự thật và gom góp chứng cớ tại Pháp cũng như tại nhiều quốc gia
khác chẳng hạn như Hoa Kỳ và Canada.
Từ
15 năm qua, các nhà bào chế tạo ra bệnh nhằm mục đích để bán thuốc.
(Phỏng
dịch từ: Psychologies.com/seniors/ les vendeurs de maladies)
http://forum.psychologies.com/psychologiescom/Seniors/vendeurs-maladie-sujet_3972_1.htm
Các
bệnh mới không ngớt ra đời, lấy thí dụ như “Hội chứng biến dưỡng” (Syndrome
métabolique) hay còn gọi lại Hội chứng thùng nước lèo hay bụng bự (Syndrome de
la bédaine). Công ty dược phẩm Sanofi (Pháp) tuyên bố rầm rộ về sự ra đời của
một món thuốc mới: Acomplia (Ribonabant) và tung ra một chiến dịch nhồi sọ
quảng cáo trên khấp thế giới.
Ngày
nay, nhiều nhà chuyên môn trong y khoa quả quyết rằng tất cả đều trên là bịa
đặt, sai bét hết.
Hội
chứng biến dưỡng thật sự ra không có. Nhưng đó là bốn loại bệnh đã được biết từ
trước rồi: áp huyết cao, cholesterol, tiểu đường, và dư cân (hypertension,
cholesterol, diabète et surpoids) kết hợp lại chung với nhau trong một bao bì
mới (nouvel emballage) hay nói một cách khác là bình cũ nhưng rượu mới. (fait
du neuf avec du vieux).
Thuốc
Acomplia cho thấy đã gây phản ứng phụ cho trên 1000 bệnh nhân tại Pháp (xáo
trộn tâm thần nặng, troubles psychiatriques graves). Có 10 người chết trong số
nầy có 4 người tự tử…
Một
năm rưởi sau ngày có mặt trên thị trường, Acomplia bị cấm bán tại Pháp và sau
đó thuốc cũng bị cấm trên cả thế giới.
Hơn
nữa, qua thí nghiệm lâm sàng trước khi thuốc được phép bán,công ty Sanofi hơn
ai hết đã biết rất rõ tầm quan trọng của các phản ứng phụ…
Cơ
quan quản lý dược phẩm Liên Âu (Agence européenne du médicament) đã quyết định
cho phép bán Acomplia sau khi họ cân nhắc “ lợi nhiều nhiều hơn hại” (bénéfice
supérieur au risque)
Thiên
phóng sự đã cho chúng ta thấy có mối liên hệ tài chánh giữa cty Sanofi và một
số bác sĩ specialists “chuyên môn” về “bệnh” đó.(chẳng hạng như Gs Després tại
Canada hay Bs Boris Hansel tại Pháp.)
Riêng
tại Pháp, có thể nói rằng 90% dân chúng rất tín nhiệm bác sĩ gia đình của họ.
Nhưng sau những scandales về thuốc men lòng tín nhiệm của người bệnh đối với
bác sĩ cũng bị sứt mẻ đi rất nhiều.
Được
biết là các nhà bào chế chi 25 000 euros/ mỗi năm/cho mỗi bác sĩ để tạo ảnh
hưởng tốt đẹp cho sản phẩm mới. (rapport IGAS, inspections générales des
affaires sociales).
Để
nhắm vào một thị trường càng rộng lớn càng tốt, các nhà bào chế quảng cáo khuyến
mãi những loại bệnh mà hầu như ai cũng có thể mắc phải hết. Họ thu lợi rất
nhiều qua việc sản xuất những món thuốc để trị những căn bệnh phổ thông hơn là
sản xuất thuốc dể chữa trị những bệnh hiếm thấy hơn mà ít người mắc phải.
Nói
chung, đó là những bệnh không rõ ràng thường hay thấy xãy ra ở những người bình
thường. Cuối cùng nhà bào chế thành công trong việc làm cho một số lớn quần
chúng tin là họ đang mắc phải bệnh đó. Thị trường dược phẩm nở rộng ra. Đôi khi
họ tạo ra những “bệnh dỏm”, đôi khi họ cho mở rộng thêm chu vi của căn bệnh.
Bằng
cách nào? Nhà bào chế cho hạ ngạch số định bệnh (baisse le seuil de diagnostic)
để có thể trị được một số lớn bệnh nhân, càng nhiều, càng lâu, càng tốt.
Một
khảo cứu Hoa Kỳ cho biết chỉ cần thay đổi dấu chấm, hay thay đổi cái dấu phết
trên ngạch số của một bệnh là sẽ có thêm được một số lượng lớn bệnh nhân
mới.($$$$).
Bênh
tiểu đường type II.
Ngày
xưa được xác định là đường huyết phải trên mức 140mg/dL.
Năm
1997, ngạch mức trên bị Cơ quan y tế thế giới OMS rút xuống còn 126 mg/dL
(7mmol/L)…Lập tức có thêm 1 700 000 người Mỹ được xếp vào danh sách bệnh nhân
tiểu đường (suốt đời!)
Cholestérol
Năm
1998, ngạch mức từ 240mg/dL bị rút xuống còn 200mg/dL. Lâp tức xã hội Hoa Kỳ có
thêm 42 600 000 bệnh nhân có cholesterol cao trong máu…Các nhà bào chế có thêm
được 86% khách hàng mới.
“
Trên thế giới, chỉ có hai nhóm người: nhóm người đã bệnh rồi và nhóm người chưa
biết họ bệnh.” Đó là mục tiêu của các nhà bào chế dược phẩm.
«
Dans le monde, il n’y a plus que 2 groupes de gens : ceux qui sont malades… et
ceux qui ne le savent pas encore… et ça, c’est l’objectif des firmes
pharmaceutiques »
Những
chiến lược thường được các công ty bào chế áp dụng
1-
Cho giảm ngạch số định bệnh (réduire le seul de diagnostic):
Đây
là chiến lược nhằm thổi phồng lên một cách giả tạo số bệnh nhân cần phải được
điều trị. Lấy thí dụ bệnh tiểu đường type 2.
Như
vậy số người cần phải uống thuốc gia tăng thêm lên mặc dù nguy cơ tiểu đưởng
rất ư là thấp. Nay họ lại phải bị bắt buộc chịu đựng thêm nguy cơ phản ứng phụ
từ những loại thuốc uống vào.
Réduire
le seuil de diagnostic : il s’agit d’une stratégie destinée à gonfler
artificiellement le nombre de gens à traiter. On peut prendre par exemple le
cas du diabète de type 2. Bien que garder un niveau faible de glucose dans le
sang n’a pas de réel impact pour la majorité des patients, le seuil de glucose
à partir duquel le diabète est diagnostiqué ne cesse de baisser. Ainsi, le
nombre de gens médiqués augmente, et les personnes avec un risque diabétique
très faible sont soumis aux risques dus aux effets secondaires des médicaments
qu’on leur fait prendre
2- Phóng đại sự hiệu nghiệm (Exagérer
l’efficacité):
Tạo
cho bệnh nhân ấn tượng thuốc có hiệu nghiệm rất lớn nhằm thống lĩnh thêm thị
trường. Theo các nhà chuyên môn, chiến lược nầy rất thường được áp dụng nhưng
cũng chỉ là để hổ trợ cho những chiến lược khác mà thôi
Exagérer
l’efficacité : de la même façon, faire croire à une plus grande efficacité permet
de conquérir de nouveaux marché. D’après les auteurs, cette stratégie est
fréquente mais n’est qu’un complément aux autres stratégies.
3-
Tạo ra những bệnh mới (créer de nouvelle maladie):
Có
gì hay hơn là tạo nên được một thị trường mới. Người ta chứng kiến sự ra đời
của những bệnh lý mới, chẳng hạn như tiền tiểu đường (Pre-diabète) và tiền cao
máu (Pré-hypertension) Đồng thời với việc giảm ngạch mức định bệnh,( baisser
seuil de diagnostic) hoặc áp dụng những sự thay thế (utilisation de substituts).
Người ta có thể nghĩ đến chứng ostéopénie nghĩa là những xương có mật độ thấp
(faible densité) nhưng chưa đủ để phải bị liệt vào trường bệnh loãng xương
ostéoporose.
Ngày
nay, ostéopénie được công tuy dược phẩm nhồi vào đầu bệnh nhân và nó trở thành
một bệnh mới và chiếm một số bệnh nhân nhiều hơn là số bệnh nhân của bệnh loãng
xương ostéoporose thật sự gấp bội. Nhà bào chế tha hồ mà bán ra thuốc Fosamax
(bisphosphonate) là thuốc đặc trị do bs kê toa trong trường hợp các bà bị loãng
xương.
“L’accueil
réservé à la ménopause, somme toute normale, en dit long lui aussi sur
l’amplitude du désastre. Comme le racontait, en 2005, Jörg Blech, journaliste
scientifique au "Spiegel", dans son livre d'enquête "les
Inventeurs de maladies" (Actes Sud), les fabricants sont parvenus à ancrer
dans les esprits que l’ostéoporose (dont la définition ne cesse de s’étendre
avec l’ostéopénie ) est une fatalité”.
Được
biết thuốc bisphosphonate mặc dù có hiệu quả trong việc giảm thiểu bệnh loãng
xương nhưng thuốc có thể có phản ứng phụ làm osteonecrosis hư mục xương hàm
(osteonecrosis), nhưng cũng rất hiếm thấy.
Créer
de nouvelles maladies : quoi de mieux qu’un nouveau marché? On a ainsi pu assister
à la création de nouvelles pathologies, comme le pré-diabète et la
pré-hypertension (en conjonction donc avec la baisse des seuils de diagnostic
ou l’utilisation de substituts). On peut aussi penser à l’ostéopénie, qui
correspond à des os de faible densité, mais d’une densité suffisante pour ne
pas être un cas d’ostéoporose. Cette “maladie” touche beaucoup plus de
personnes que l’ostéoporose, et permet donc de vendre plus de bisphosphonates.
BỆNH
HOẠN, MỘT THỊ TRƯỜNG BÉO BỞ
Rf
Anne Crignon –Le Nouvel Observateur -La maladie, un marché juteux
Messages
sanitaires mensongers
L’accueil
réservé à la ménopause, somme toute normale, en dit long lui aussi sur
l’amplitude du désastre. Comme le racontait, en 2005, Jörg Blech, journaliste
scientifique au "Spiegel", dans son livre d'enquête "les
Inventeurs de maladies" (Actes Sud), les fabricants sont parvenus à ancrer
dans les esprits que l’ostéoporose (dont la définition ne cesse de s’étendre
avec l’ostéopénie ) est une fatalité. Message sanitaire mensonger, conçu pour
faire peur. Car c’est par la peur que les firmes gagnent les vastes marchés de
la prévention et ses milliards de dollars et d’euros. Plus le mensonge est
énorme et moins il se voit.
Depuis
qu’on a abaissé la valeur de référence en matière de cholestérol, on est passé
de 13 millions de patients traités à vie à 36 millions. Combien de bien
portants ainsi capturés sur la base d’une étude biaisée ? John Abramson,
médecin et auteur d’"Amérique sous overdose", raconte comment
l’industrie pharmaceutique a focalisé toute la prévention des troubles
cardio-vasculaires sur l’abaissement du taux de cholestérol par les statines
alors que la recherche montre que la meilleure prévention relève bien plus
simplement de l’exercice physique et de l’alimentation.
Dịch
từ báo Nouvel Observateur:
Thông
tin y học láo khoét
Năm
2005, phóng viên khoa học Jorg Blech của báo Spiegel (Đức Quốc) trong tác phẩm
điều tra của ông dưới tựa đề là “ Những người sáng chế ra bệnh” cho biết các
nhà bào chế đã thành công trong việt nhồi sọ dân chúng ý niệm loãng xương
ostéoporose (mà định nghĩa của nó không ngừng được mở rộng thêm ra với hiện
tượng thiếu xương ostéopénie) là một định mệnh (fatalité). Chính sự sợ hãi của
dân chúng đã giúp các xí nghiệp dược phẩm thống trị được một thị trường to tát
về việc phòng ngừa loãng xương và nhờ đó mà họ thu được hằng tỷ dollars và
euros. Láo khoét càng to tát chừng nào thì khó phát hiện chừng đó.
Từ
lúc ngạch mức chẩn đoán cholesterol được người ta cố tình hạ xuống thì số bệnh
nhân lúc trước là 6 triệu người phải uống thuốc suốt đời, nay thì tăng lên 36
triệu người. Như vậy có biết bao là những người có sức khỏe bình thường nay thì
trở thành nạn nhân của một khảo cứu thiên vị (biasé) và bắt buộc họ phải uống
thuốc hết. John Abramson, là bác sĩ và tác giả của quyển:
Overdosed
America - John Abramson M.D.- the Dove.us
Theo
Bs John Abramson, kỹ nghê dược phẩm tập trung việc phòng ngừa bệnh tim mạch qua
việc làm hạ cholestérol bằng thuốc statines trong khi các khảo cứu minh chứng
là việc phòng ngừa bệnh tim mạch tốt nhứt là thực phẩm dinh dưỡng và vận động
thể dục thể thao.
Đọc cho
biết tin mới nhứt: Bệnh tự kỷ không phải do thuốc chủng MMR gây ra.
Năm
1998 tạp chí y học nổi tiếng thế giới Lancet có đăng bài “đính chánh” (a now
retracted study) khảo cứu của Gs Andrew Wakefield liên hệ đến nguyên nhân bệnh
của bệnh tự kỷ (autism) liên quan đến thuốc chủng ngừa MMR (measles, mump,
rubella) tức là sởi , quai bị và sởi Đức. Bs Wakefield bị treo bằng sau đó.
Vừa
qua, July 1, 2014, tạp chí y khoa Pediatrics cho biết nhiều khảo cứu liên quan
đến “Sự liên hệ của vaccine MMR và bệnh tự kỷ” đã đưa ra kết luận là Vaccin MMR
không có gậy ra “ hội chứng phổ tự kỷ” (autism spectrum disorders).
Video:
Journal questions validity of autism and vaccine study
By
Debra Goldschmidt, CNN august 28/2014
http://www.cnn.com/2014/08/27/health/irpt-cdc-autism-vaccine-study/index.html?hpt=hp_c2
The
debate over whether autism spectrum disorders are caused by vaccines started
when researcher Andrew Wakefield published a now-retracted study in The Lancet
in 1998 that linked the MMR vaccine to autism.
Most
of Wakefield's co-authors withdrew their names from the study when they learned
Wakefield had been compensated by a law firm intending to sue manufacturers of
the vaccine in question. In 2010, Wakefield lost his medical license. And in
2011, The Lancet retracted the study after an investigation found Wakefield
altered or misrepresented information on the 12 children who were the basis for
the conclusion of his study. Other researchers have not been able to replicate
Wakefield's findings. In fact, several subsequent studiestrying to reproduce
the results have found no link between vaccines and autism, including several
reviews by the Institute of Medicine. Most recently, a study published in
Pediatrics on July 1 concluded that vaccines do not causeautism spectrum
disorders.
Vaccine
MMR là gì?
http://www.healthlinkbc.ca/healthfiles/bilingua/vietnamese/hfile14a-V.pdf
Đọc
thêm
video
:Maladies inventées:un juteux marché http://www.youtube.com/watch?v=3EQ2nn3Jx7o
Video:Overdosed
America - John Abramson M.D.- the Dove.us
http://www.youtube.com/watch?v=OYBrXcsDzhI
(44phút)
–nói tiếng Anh
(Các
bạn nên xem đoạn video của 1 bs Mỹ dám nói lên sự thật về thuốc men, FDA và kỹ
nghệ dược phẩm!)
Nguyễn
Thượng Chánh & Nguyễn Ngọc Lan:
-
Bên trong kỹ nghệ thuốc Tây
http://khoahocnet.com/2012/07/23/duoc-si-nguyen-ngoc-lan-bac-si-thu-y-nguyen-thuong-chanh-ben-trong-ky-nghe-thuoc-tay/
-
Bệnh loãng xương, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược
Psychologies.com-Seniors
/Les vendeurs de maladies
http://forum.psychologies.com/psychologiescom/Seniors/vendeurs-maladie-sujet_3972_1.htm
-
Le Nouvel Observateur- Anne Crignon-Maladie,un marché juteux
http://tempsreel.nouvelobs.com/societe/20111107.OBS3985/la-maladie-un-marche-juteux.html
Montreal
2021
Nguyễn
Thượng Chánh
Nhận xét
Đăng nhận xét