BỆNH NGHIỆN RƯỢU DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Giới cầm quyền CS không quan tâm đến sức khỏe của người dân: Đối với giới cầm quyền CS, thu nhập và thuế do việc tiêu thu rượu đem lại quan trọng hơn là sức khỏe của người dân. Vladimir Treml, một nhà kinh tế thuộc cựu Nga CS đang làm việc tại Duke University cho biết “Hơn sáu mươi năm, thuế rượu đem lại 12 phần trăm đến 14 phần trăm thu nhập của nhà nước” và do đó nhà nước CS khuyến khích hơn là ngăn chận tệ nạn lạm dụng rượu tại Liên Xô.
Chế độ CS đã sụp đổ tại Châu Âu nhưng
những căn bệnh xã hội do cơ chế gây ra đã trở thành một lối sống, một văn hóa
xã hội chủ nghĩa tại những nước này và không thể dễ dàng thay đổi.
Giống như tại Liên Xô, Đông Đức, Ba
Lan, giới cầm quyền CSVN cũng sẽ từ chối và cho rằng chẳng lẽ tệ trạng nào cũng
đổ lên đầu chế độ hay sao. Thế nhưng, các nghiên cứu cho thấy đúng vậy, cơ chế
chính trị CS là nguyên nhân tiềm ẩn sâu xa của bệnh nghiện rượu.
Giấu cơn giận trong men cay, ngăn nỗi
buồn nơi đáy cốc là thái độ tìm quên tiêu cực nhưng rất phổ biến của người dân
thường trước những bất công đang đè lên số phận của họ. Bệnh xã hội như thế chỉ
thuyên giảm khi các điều kiện vật chất và tinh thần thay đổi theo một chiều
hướng tốt đẹp hơn.
Trần Trung Đạo
https://baotintuc.vn/ban-doc/bo-suu-tap-63-lon-bia-mang-hinh-anh-dac-trung-cua-63-tinh-thanh-viet-nam
Sắp Tết, số lượng rượu bia được tiêu thụ chắc chắn
sẽ tăng cao. Câu hỏi đặt ra tại sao Việt Nam là một trong những quốc gia dùng
rượu bia cao nhất thế giới?
Nhắc lại, hôm 26 tháng 9, 2016, Báo VietNamNet đưa
tin “Đàn ông Việt uống rượu bia nhiều nhất thế giới.” Theo lời Bác sĩ Trần Quốc
Bảo, Cục Y tế Dự phòng dẫn chứng cho biết “Nếu tính trung bình, một người nam
giới trưởng thành uống khoảng 27.4 lít cồn nguyên chất, đây là con số rất đáng
báo động và là một trong số những quốc gia đứng hàng đầu thế giới về tỉ lệ
này.”
Cùng lúc, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cũng
thốt lên: “Dù nước ta mọi mặt kinh tế, xã hội đều có sự phát triển, nhưng tỉ lệ
dùng rượu bia đang tăng quá nhanh so với các chỉ số khác. Nếu không có biện
pháp mạnh tay để hạn chế, Việt Nam sẽ là quốc gia đứng đầu thế giới về sử dụng
rượu bia.”
Kỷ lục dùng rượu bia tại Việt Nam không phải ngẫu
nhiên.
Theo công bố của WHO (Tổ chức Y tế Thế giới) thuộc
Liên Hiệp Quốc, năm 2015, chín trong số mười quốc gia tiêu thụ lượng rượu cao
nhất thế giới là những nước cựu Cộng Sản. Các nước này gồm Belarus, Moldova,
Lithuania, Russia, Romania, Ukraine, Hungary, Czech Republic và Slovakia.
Lấy nước Nga, từng là nước CS lớn nhất châu Âu để
phân tích trước.
Tiêu thụ rượu cao tại Nga có từ thời Sa Hoàng nhưng
vượt cao sau cách mạng CS Nga 1917.
Rất nhiều lý do như thời tiết, chiến tranh, nghèo
khó v.v… được đưa ra để giải thích việc sử dụng rượu quá cao tại Nga CS. Những
giải thích này đều không đứng vững vì sau nội chiến, khi điều kiện sống tốt hơn
và những mùa không quá lạnh số lượng rượu được tiêu thụ cũng không giảm bớt.
Tháng Năm, 1985, Gorbachev tung ra chiến dịch toàn
quốc chống nghiện rượu. Ông cho rằng nghiện rượu là một trong ba căn bệnh trầm
trọng nhất tại Liên Xô, chỉ sau bệnh tim và ung thư.
Gorbachev hy vọng việc giảm lượng rượu được dùng sẽ
giúp gia tăng năng xuất, nhưng kết quả trái ngược, thu nhập lợi tức từ rượu của
chính phủ có giảm nhưng mức sản xuất không tăng một cách tương ứng.
Thực tế đó cũng đã xảy ra tại Ba Lan. Trong phóng
sự điều tra của báo Christian Science Monitor phát hành ngày 3 tháng 3, 1981
khi chế độ CS Ba Lan còn rất mạnh, một trong những căn bệnh xã hội trầm trọng
nhất tại Ba Lan là nghiện rượu. Mười phần trăm trong số mười hai triệu công
nhân Ba Lan say rượu mỗi ngày. Nhà cầm quyền CS tăng giá rượu cao với hy vọng
số lượng rượu được tiêu thụ sẽ giảm, nhưng không, lượng rượu được dùng đã không
giảm bớt.
Theo nghiên cứu của sử gia Thomas Kochan trong tác
phẩm “The Blue Strangler – Drinking habits in the GDR”, Đông Đức trong thời kỳ
CS tiêu thụ rượu cao nhất châu Âu và gấp đôi Tây Đức. Chữ “The Blue Strangler”
trong tác phẩm của ông là hiệu rượu vodka Đông Đức có 40% cồn. Lương trung bình
của một công nhân Đông Đức khoảng 500 Marks trong lúc một chai rượu Cognac giá
80 Marks. Trong số những người nghiện rượu hạng nặng có cả các ủy viên Trung
ương đảng hay ủy viên Bộ Chính trị CS Đông Đức như trường hợp Alfred Neumann.
Tại Trung Cộng, theo công bố của WHO vào tháng 12,
2012 “Alcohol and alcohol-related harm in China: policy changes needed”, số
người uống rượu tại Trung Cộng cao hơn phần lớn nhân loại với 55.6 phần trăm
đàn ông và 15 phần trăm đàn bà uống rượu. Hiện nay, Trung Cộng là một trong
những nước sản xuất bia nhiều nhất thế giới. Uống rượu trong giờ làm việc cũng
là một tình trạng phổ biến tại Trung Cộng và tình trạng này gắn liền với tham
nhũng, hối lộ trong giới chức nhà nước. Nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ bệnh
gan có liên quan đến rượu nơi giới viên chức nhà nước CS cao hơn nhiều so với
giới dân thường. Ngay cả báo đảng Nhân Dân Nhật Báo cũng thừa nhận tình trạng
uống rượu trong lúc làm việc và viết hàng loạt phóng sự về vấn đề này.
Các phân tích đó cho thấy cơ chế chính trị Cộng Sản
là một tương quan nổi bật giữa các nước CS Liên Xô và Đông Âu trước đây cũng
như Trung Cộng và CSVN hiện nay. Các thể hiện của tương quan này:
Mượn rượu giải sầu: Nhiều công nhân, nông dân dưới
các chế độ CS mượn rượu để làm lối thoát cho lòng tổn thương, thất vọng. Sự
thất bại của các chính sách cai nghiện rượu cho thấy việc giải quyết không đơn
giản là tăng giá như chính phủ Ba Lan hay Liên Xô đã làm nhưng phải áp dụng các
cải cách chính trị kinh tế căn bản.
Say rượu là một biểu hiện của thái độ trốn chạy
thực tế (escapism): Lý do chính như Michael Binyon trong nghiên cứu Life In
Russia xuất bản vào thập niên 1980 cho rằng nhiều người Nga uống rượu chỉ để
say. Họ tuyệt vọng khi đối diện với một “khoảng trống tinh thần,” một xã hội
không còn có những giá trị văn hóa mà đất nước họ đã từng có trong lịch sử
trước đó.
Điều kiện sống: Nhà ở chật chội, lương bổng thấp,
thiếu thốn mọi thứ cần thiết và sống trong bóng tối theo nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng đã đẩy người dân chọn rượu như là phương tiện “giải trí” dễ có nhất. Xã
hội cộng sản là một xã hội thiếu thốn những món hàng căn bản trong đời sống
hàng ngày của con người nhưng lại có đầy đủ rượu. Giới cầm quyền CS từ chối
nguyên nhân này nhưng thực tế đó đã được rất nhiều nghiên cứu rút ra khi so
sánh đời sống của công nhân dưới hai xã hội tự do và CS.
Giới cầm quyền CS không quan tâm đến sức khỏe của
người dân: Đối với giới cầm quyền CS, thu nhập và thuế do việc tiêu thu rượu
đem lại quan trọng hơn là sức khỏe của người dân. Vladimir Treml, một nhà kinh
tế thuộc cựu Nga CS đang làm việc tại Duke University cho biết “Hơn sáu mươi
năm, thuế rượu đem lại 12 phần trăm đến 14 phần trăm thu nhập của nhà nước” và
do đó nhà nước CS khuyến khích hơn là ngăn chận tệ nạn lạm dụng rượu tại Liên
Xô.
Chế độ CS đã sụp đổ tại Châu Âu nhưng những căn
bệnh xã hội do cơ chế gây ra đã trở thành một lối sống, một văn hóa xã hội chủ
nghĩa tại những nước này và không thể dễ dàng thay đổi.
Giống như tại Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan, giới cầm
quyền CSVN cũng sẽ từ chối và cho rằng chẳng lẽ tệ trạng nào cũng đổ lên đầu
chế độ hay sao. Thế nhưng, các nghiên cứu cho thấy đúng vậy, cơ chế chính trị
CS là nguyên nhân tiềm ẩn sâu xa của bệnh nghiện rượu.
Giấu cơn giận trong men cay, ngăn nỗi buồn nơi đáy
cốc là thái độ tìm quên tiêu cực nhưng rất phổ biến của người dân thường trước
những bất công đang đè lên số phận của họ. Bệnh xã hội như thế chỉ thuyên giảm
khi các điều kiện vật chất và tinh thần thay đổi theo một chiều hướng tốt đẹp
hơn.
Trần Trung Đạo
Nhận xét
Đăng nhận xét