Cái Muỗng
Cái Muỗng
Truyện ngắn: VĂN QUANG
1
Tôi không nhớ rõ năm thứ mấy, chúng
tôi đi 'học tập cải tạo';
chỉ biết rằng đã có những người' quen' với những ngày
tháng cực khổ, dài lê
thê trong những căn nhà
giam; được 'xây dựng' bằng đủ thứ kiểu; giữa những vùng rừng núi âm
u. Ở Sơn la, thì 'trại' được lảm trên những nhà tù từ thời xa xưa; chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ; người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che
kín được khung trời.
Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị; rồi một thời gian sau, Việtnam giam những người tù Thái Lan; trong chiến tranh, đã
có khi người ta dùng
làm 'công binh xưởng', chế tạo lựu đạn. Vì
thế, thỉnh thoảng chúng
tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó;
quanh khu vực này.
Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh, vách đất; ngoại trừ có một khu, người ta gọi là 'khu
biệt kích'; gồm vài căn
nhà xây dựng kiên cố, bằng gạch, lợp tôn
xi-măng. Chúng tôi được học tập cải tạo trong dãy
nhà này. Cũng nghe người ta nói lại : 'khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích, đã
từng nhảy dù ra
ngoài Bắc; rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó.'
Muốn vào khu
này phải qua 2 lần cổng, có tường gạch bao
quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì
khác; còn khi chúng tôi 'được giam' ở đây có vẻ cởi mở hơn; vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng
tôi đi lao động hàng
ngày; cho khỏi phải ra mở cửa.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi; rồi người ta cũng
phải quen.
Nhịp sống hàng
ngày cứ thế trôi đi;
dù đói rét, thiếu thốn; và,
trong cấm đoán vô
cùng khe khắt.
Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật, quy định riêng.
Những ngày đầu, người ta cấm luôn cả trà,
cà-phê; thậm chí cấm cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành
'luật'; thì,
luôn bị cấm, cấm ở bất cứ đâu.
Cấm 'mua bán
đổi chác linh
tinh', cấm dùng thức ăn lâu
ngày bằng bột, cấm tỏi; cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng dao,
kéo, muỗng nĩa. Tuy
vậy, có anh
tù nào lại ngây thơ, ngoan ngoãn, đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy.
Mua bán, đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra; dao
kéo vẫn cứ được lén lút sử dụng hàng
ngày; những thứ đã được 'cải biên'
thành dao kéo mini nhỏ nhắn; cho dễ cất giấu. Nó
là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng
ngày; dù có bị bắt, thì cũng
chỉ bị tịch thu, chứ không đến nỗi bị cùm 1 hoặc 2 chân --
tùy theo tội đưa vào 'thiên lao', tức là thứ phòng giam
đặc biệt trong trại tù.
2
Ngày qua ngay, cái 'không khí êm ả' của trại giam trở nên phẳng lặng; dĩ
nhiên là không thể nào nói rằng, đó là thứ 'an tâm', hồ hởi, phấn khởi; mà bất cứ anh trại viên nào
cũng phải viết, khi làm
những 'bàn kiểm điểm'-- mặc dù kể cả người viết, người đọc, chẳng ai tin.
Nhưng cái không khí ấy ,đôi khi;bỗng nhiên bị xáo trộn.
Vào một buổi sáng tinh
mơ, khi chúng tôi đng ngồi ở cái sân đất giữa trại, chuẩn bị gọi tên từng đội đi lao động; để 'một ngày vinh
quang như mọi ngày' ;
thì, bỗng đâu toán
lính gác trại tù
sồng xộc chạy vào.
Họ chạy rầm rập như ra trận như ra trận, súng ống chĩa về phía 'quân
thù', mặt mủi 'khẩn trương' rõ rệt. Họ xộc thẳng vào
phòng giam trống hốc, cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong
đó.
Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn,
không hiểu họ giở trò gì. Có
những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo lắng bâng quơ. Chuyển trại hay có một ai trốn trại. Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi; [của] mỗi người tù có được trong gói
hành trang của riêng
mình. Sau đó chứng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên
'phòng thi đua'. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng: 'đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ 'quốc cấm' của trại đã quy định'.
Thật ra,đó là cái cung cách ở những trại cải tạo thường dùng; để khuấy động cái
không khí trầm lặng, dễ phát sinh
ra những 'tiêu cực'. Bời; trong
cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau, làm
một chuyện gì đó, như tổ chức trốn trại; hoặc, có thể có những vụ xúi giục 'tuyệt thực', bàn bạc chống đối ...
Nếu nói đến sự chống đối; thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được.
Thí dụ: sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh
'quản giáo', sự hỗn hào của mấy anh lính
võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì
thế; thỉnh thoảng họ phải làm cho
cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng, để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc
nào họ cũng 'đề cao cảnh giác',
lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi 'mưu đồ'.
Các anh tù đứng có 'tưởng bở', chẳng bao giờ yên đâu.
Cứ sau mỗi lần như thế; chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào
đó giấu những thứ vớ vẩn; như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng
ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc 'kiểm điểm, phê
bình'; chúng tôi gọi là những 'buổi tối ngồi đồng'; để từ đó, hi vọng lòi ra một vài cái
'tội'. Đội nào khôn
ngoan thì cứ ngồi im, ai
'phê' thì cứ mặc; còn cãi
thì còn phải 'ngồi đồng'.
Đi làm suốt ngày mệt mỏi đến thở không ra hơi; tối về, còn ngồi đồng, còn [bị] 'phê bình', còn 'kiểm thảo'; thì chịu sao nổi.
Nay 'làm chưa xong'; thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào
tìm ra tội mới thôi.
Tội nặng, tội nhẹ; tùy theo
tình hình của từng thời điểm.
Thời điểm 'căng', thì vào nhà kỷ luật đặc biệt; nằm 'treo một chân', thời điểm nhẹ nhàng thỉ cảnh cáo, ghi
tội vào biên
bản. Họ sẽ có những biện pháp an
toàn; như chuyện đổi 5, 7 anh;
từ đội này sang
đội khác, để tránh những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm
có thể gây nguy hại đến an ninh
trại tù.
Chung quy, đó chỉ là một cách đào
xới tung:
cái tinh thần 'tưởng rằng yên ổn' của mấy anh 'trại viên' còn
tỏ ra cứng đầu; còn có mưu toan kéo người này, người kia vào trong phe mình, để từ đó, có những yêu
sách; hoặc, toan
tính bất lợi cho trại tù.
Mỗi lần như thế, trại tù cũng rối tung lên;
và, làm cho những anh yếu bóng vía,
thường phải sống dự vào tinh
thần bè bạn, càng
thêm rụt rè; chẳng biết tin vào
ai được nữa..
Nhưng riết rồi trò gì
cũng thanh quen; đối với một số người 'chẳng có gì để mất', thì họ trở nên như đá, muốn làm gì thì làm; chỉ có cái
thân tù đói này thôi, sống cũng được, chết cũng chẳng sao.
Có lẽ tôi cũng đã được học tập cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ; bởi, tôi cũng
chẳng có gì để mất. Vợ con, nhà cửa đều đã mất tất cả rồi; chẳng có gì phải lo. Đôi
khi tôi sống tưng tưng, ông anh ở Sài gòn gửi cho cái gì; thì nhận cái nấy.
Và, một sự thật không thể quên; nếu không có
ông anh rể tốt bụng đó; thì,
tôi cũng đã trở thành một thứ 'caritas',
như một số anh em
trong trại tù rồi -- tức là những người chẳng có ai
thèm nuôi.
Những bà vợ đau khổ+ những gia đình đói khát lầm than; họ lo cho
chính họ không
xong, thì lấy gì đi
'thăm nuôi' người ở trong tù;
lại ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù
tắp. Thậm chí, có
người còn vui mừng; khi thấy vợ bước đi bước nữa ,với một anh nào
đó; đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế; để chứng minh rằng: không
nên trách cứ bất kỳ một ai trong
hoàn cảnh cay nghiệt này.
Theo tôi thì những anh 'mồ côi' không ai thăm nuôi trong trại tù, mới được hưởng trọn vẹn cái 'thú đau thương'.
3
Trở lại chuyện buổi sáng tinh
mơ, khi toán lính chạy sồng xộc vào trại, là một buổi sáng cuối mùa đông,
trước tết âm lịch chừng vài
ngày. Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù; trước những ngàylễ tết lớn.
Tôi thảnh thơi đi theo đội đi làm ở ngoài đồng; tôi vẫn cứ yên chi rằng chẳng có gì để mất, chẳng có gì
quan trọng.
Vào mùa đông, cái thứ quan trọng nhất, là rau.
Mùa này thiếu rau đến ... khô
quắt cả dạ dày; rau
muống, bầu bí không
trồng được, chỉ còn rau cải; trồng cải thì
lâu [được] ăn,
năng suất lại không cao
-- nên được tí rau,
là hạnh phúc nhất.
Tôi ngồi lê la trước mấy luống xu hào,
đó là thứ 'thực phẩm cao cấp' nhất trong khu
vườn của toàn đội. Những củ xu hào bắt đầu to hơn nắm tay, nằm tròn
trĩnh dưới những tàu lá
xanh mượt; tôi trông
coi chúng, vì cái công sức tôi bỏ ra một tháng trời. Tôi coi
chúng cũng như một tác phẩm nào đó;
tôi đã từng viết ra; ở đây, không
có gì để coi như tác phẩm, thì coi nó là tác phẩm vậy; để có cái mà
thú vị+ cái quên
đi những thứ quanh
mình.
Cứ như thế; tôi tha hồ đặt tên từng luống xu hào,
có khi là một cái tên
nghe có vẻ 'lả lướt', như tôi đã gặp ở phòng trà
khiêu vũ; có khi là một cái tên rất dung tục. Âu
cũng là một trò 'nghịch ngợm', giữa vùng rừng núi âm
u; hầu như không có mặt trời mùa đông
này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong 1, 2 ngày nữa. Bởi tết ta đã đến, dù luống xu hào còn non, chưa đến ngày 'thu
hoạch'; nhưng cần thức ăn trong
3 ngày tết, họ sẽ nhổ. Nếu tù không
ăn, thì cai tù ăn; chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân.
Nhưng vui chơi được giờ nào, hay
giờ ấy; trong cuộc sống phù du
này.
Buổi trưa về đến trại, trong
khi bạn bè xung
quanh đang xôn xao; kẻ bị tịch thu cái
này, người bị mất cái kia,
thì tôi vẫn nhởn nhơ; vì tôi chẳng có gì để mất.
Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm; nhưng thật ra, chỉ có đúng 1
bát bo-bo tương đối khá đầy đặn.
Tôi ăn thì tạm lưng lửng, [còn] những bạn tôi thì
không bao giờ đủ. Họ thường nói, 'vừa ăn xong,
vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn'. Cái đói cứ lửng lơ mãi; ngày này qua
ngày khác, thế mới khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn
theo kiểu câu dầm; lấy cái
muỗng tre nhỏ xíu; hoặc, một cái gì đó
lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả rích suốt ngày; để có cảm tưởng, lúc nào
cũng được ăn, nó
làm lu mờ cái cảm giác đói
-- đó là cách tự đánh lừa mình.
Tôi cũng ăn dè, hà tiện'; nhưng ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng 'inox' hẳn hoi, có
chạm trổ tinh vi,
luôn luôn được chúi rửa sáng
bóng. Nhưng sáng nay, được chia 2 củ khoai lang ăn sáng; nên tôi để cái muỗng ở nhà.
Tôi thường cất nó vào
trong chiếc lon 'Guigoz' --
một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng, nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù;
nó có thể dùng 'trăm
công ngàn việc', từ đựng các loại thức ăn, thức uống, đến đun nấu, câu móc,
đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa, đánh
răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay; thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là
nó bị tịch thu
trong buổi khám xét
trại, sáng
nay.
Đây là thứ 'gia bảo', tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm, chưa hề lơi lỏng.
Nó luôn luôn nằm sát bên tôi; lúc nào đi lao động, cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như một cái nạng của anh què,
cái gậy của ông lão
90, một thứ đã thành
thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế; chiều hôm đó,
tôi quyết định đến gặp Dực, anh
chàng trưởng ban thi
đua của trại.
Dực cũng chỉ là một 'trại viên'; nhưng trước đấy, anh ta là cán bộ 'thoái hóa tiêu cực' sao đó; nên bị đi tù. Những anh cán bộ + quân nhân trong trại tù, thường được gọi 'phạm binh phạm cán'; tức là tội phạm thuộc binh sĩ,
cán bộ cũ.
Họ có một chế độ đãi ngộ riêng; thường được dùng vào
trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.
Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh
côi, tỉnh Thái
bình; Dực liền hỏi quê
quán, nhận là người cùng quê.
Một lần, Dực dẫn chúng tôi
đi lấy quần áo ngoài
trại chính;
qua khoảng đồi núi quanh
co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng: "cậu huyện Nhụ nằm ở đó".
Tôi hỏi anh ta có họ hàng thế nào với ông huyện Nhụ; anh ta nói, cháu gọi ông Nhụ bằng cậu; nhưng, gia đình cụ Nhụ vào Nam, còn gia đình anh vốn nông dân,
ở lại miền Bắc.
Cụ Nguyễn mạnh Nhụ * trước năm 75, chánh án tòa Sài gòn; tôi nghe nói' cụ cũng có họ hàng với gia đình
tôi, tuy là họ xa'.
Cụ làm tri
huyện từ khi còn rất trẻ, sau này
tôi có gặp cụ vài lần.
Tôi kể cho Dực nghe đôi
ba chuyện về cuộc sống cụ huyện Nhụ, khi còn ở Sài gòn.
Sau này, đi 'cải tạo' , cụ mất ở trại này.
Dực nói, 'trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh
giò' -- Dực nhắn người nhà ở Thái bình,
khi đi thăm nuôi; thì ghé qua Hànội mua 'lén' vài cái; bánh giò mang tới nơi, thì cụ đã mất rồi.'
---
* ông
Nguyễn mạnh Nhụ la con trai cụ bảng Mộng -- tháng 5/ 1954 là giám đốc Báo chí bộ
Thông tin+ tuyên truyền, dưới thời tổng trưởng Phạm xuân Thái (phe Cao đài hợp
tác lập nội các với thủ tướng Ngô đình Diệm). Ông là bố của biên lý kiêm thi sĩ
Huy Trâm [ i.e. Nguyễn hồng Nhuận-Tam,
1936- ], hiện ở bang California/ Hoa Kỳ.[ (Bt)
Tử đó đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn. Dĩ nhiên là cái khoảng cách giữa một bên
là 'ngụy', một bên
là 'cán'; thì cũng khó san lấp được ...
Nhưng hôm nay; thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa, tôi không gặp được Dực.
Cho đến 2 hôm
sau, khi trại đã xôn
xao chuẩn bị cho những ngày tết ta, tôi mới gặp được Dực.
Trong khi đó, tôi dò hỏi mấy tay làm
văn hóa; xem những thứ bị tịch thu còn
để trong
phòng thi đua không? Họ nói: 'còn để trong kho, lẫn lộn với những thứ đồ dùng
khác'. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh
tôi gửi vào.
Rất may cho
tôi, hắn cũng bị đau dạ dày. Và cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó, chỉ là 'tí mật ong trộn với củ nghệ, không mấy công hiệu'. Tội có thứ thuốc 'cao cấp' hơn là 'Ma-lốc' ; uống vào làm
cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ [sản xuất] đàng hoàng, người ta ghét Mỹ; nhưng thuốc của nó tốt, có sao
đâu?'
Tôi gạ chuyện, để xin lại cái muỗng; Dực trợn mắt:
" Anh làm cái gì mà cần cái muỗng * đến thế? Bây
giờ để trong kho,
chui vào đấy, trực trại nó biết; thì, tôi
vào nhà đá."
---
* muỗng, (cái thìa) phương ngữ Nam bộ. (Bt)
Tôi năn nỉ:
" ... là đồ gia bảo của tôi đấy.
Anh biết không,
tôi mất nhiều thứ lắm; một cái bằng lái xe 3
dấu, 1 cuốn tự điển. Nhưng tôi không cần, chỉ cần cái muỗng
thôi."
Dực nhìn tôi nghi ngại:
" Hay mày giấu tiền trong
đó?"
Dực hơn tôi 2 tuổi; hắn gọi tôi bằng 'mày',
tôi cũng không [bị chạm] tự ái; dù hắn có kém
tôi vài ba tuổi; mà lúc
đó gọi tôi bằng 'mày',
tôi cũng cho qua luôn.
" Cái muỗng đặc,nhỏ như thế, làm sao
giấu tiền được"?
Dực nửa đùa nửa thật:
" Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày cũng làm được. Chưa biết chừng, mày giấu cả cái máy
quay phim trong đó, cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim, phải
không"?
" Đúng, nhưng là tôi viết truyện; rồi người ta lấy làm phim,
chứ tôi biết cái 'cóc
khô' gì".
" Vậy, sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng; mày mua chuộc tao bằng 2 vỉ thuốc đau dạ dày, không bõ. Khéo không, chết cả đám.
Tao không chơi."
Tôi thất bại; nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc.
Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp tết ta. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa
đào lên tấm phông
trên hội trường; thì Dực kéo tôi
xuống.
Nó bảo tôi đi
khuân sách trên thư viện về hội trường; kê bàn
ghế, trang trí
thành khu đọc sách báo
trong 3 ngày tết, cho ra vẻ 'có văn
hóa'. Nhưng nếu coi thư viện; thì
không được ăn tết ở phòng, phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay, dù
biết rằng sẽ mất cái thú vị cùng dự những ngày tết với anh em
trong phòng -- và, mất cái thú ngồi đánh mạt chược, bằng những con bài
gỗ do chúng
tôi làm lấy.
Thế là, tôi có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng: 'tôi có cái gì giấu trong đó'. Tôi đành kể cho Dực nghe, "Buổi sáng hôm tôi phải đi 'học tập cải tạo'; vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng hàng
ngày, đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi; khi
đó mới hơn 3 tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi
xách; quần áo, khăn
mặt, thuốc men ..., nó đang
ăn sáng, củng bỏ vào xách
tay của tôi cái
muỗng đang ăn.
dặn dò,
"con cho bố mượn, khi nào
bố về, phải trả lại con đấy."
Tôi ôm con gái, gật đầu hứa: 'khi bố về sẽ trả'. Nhưng quả thật, tôi vẫn
nghĩ, chẳng bao giờ trả lại được cho nó; lần chia tay
này có thể là vĩnh viễn ... Chúng
tôi ngậm ngùi chia
tay; không thể hẹn được ngày về, vì có biết ngày nào
về đâu; mà hẹn!'
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt những bữa ăn, suốt trong giấc ngủ. Hình ảnh con gái + gia đình tôi hiện lên, qua
cái muỗng đó.
Tôi vẫn [tự] đánh lừa rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên những người thân.
Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy, niềm ước vọng không
bao giờ thành hiện thực; vậy mà đôi
lúc tôi cũng thấy ấm lòng.
Nghe câu chuyện ấy; Dực tỏ ra chần chừ, hắn vỗ vái tôi, "Thôi được, nếu như thế tôi giúp cậu. Tối nay, khi
ngồi coi phòng
đọc sách; tôi
sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cấu xuống phòng
thi đua, [để] cậu ngồi ăn ở đó -- trong khi tôi gọi ban thi
đua lên phòng hội; thì tôi
giả vờ để quên cái
chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy, có gì
thì cậu chịu trách nhiệm. Nó
vớ được, thì 'kỷ luật' suốt cái tết này đấy; chưa chừng suốt mùa
xuân."
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách 'ăn
trộm' này.
Tối đó tôi mở khóa, tôi
mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống 'hầm-bà-lằng', đủ thứ đồ dùng lặt vặt, vừa bị thu mấy hôm trước.
Tôi sục ngay vào
cái đống linh
tinh đó; quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.
Thôi thì đủ thứ: cái điếu cày được làm bằng những ồng hỏa châu; hoặc, những cái lược cho con gái; cho người yêu, làm
bằng nhôm, được khắc những cái tên
'Hồng Hoa,
Bích Phượng, Thúy Hường ' ...;
nghe nao cả lòng.
Những con dao
nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn,
cũng có hóa lá cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.
Sách vở tiếng Pháp, tiếng Anh; và đủ thứ giấy tờ lộn xộn.
Cái tôi kiếm được trước tiên,
cái bằng lái xe của tôi.
Tôi không dại gì; không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp; vừa hồi hộp, vừa phải thật nhanh
tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ, cũng khiến tôi giật mình.
Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy; và đâm hốt hoảng, nếu cái muỗng không
còn ở đó nữa.
'May quá, cái muỗng kia rồi', nó nằm dưới cuốn sách dày
cộm của 'thằng chết tiệt' nào đó.
Nó chỉ thò ra có
mỗi cái đuôi,
tôi cũng nhận ra nó
ngay; lúc đó, tôi có cảm tưởng như 'con có ở xa hàng cây số, thì bố cũng nhận ra con như thường'.
Tội vồ lấy nó, như sợ bị người ta giật mất.
Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán
muỗng; tôi đã
quá thân thuộc, như chính cái nét mặt con gái
tôi, khi nó nhí nhảnh, đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui; bố đi chơi, rồi mai bố về. Tôi
cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó; và,
trong nụ cười hồn nhiên của nó.
'Ừ, thì vui'.
Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó; và,
trong nụ cười hồn nhiên của nó.
Không hiểu sao trong
lúc gay cấn như thế; hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh, như một ánh chớp.
Tôi vọt ra khỏi phòng,
khoá cửa lại; biến nhanh vào
bóng tối, trên con
đường về 'khu biệt kích'.
Thoát nạn!
Cái tết ta ấy, tôi lại được vui chơi với muỗng của tôi; dù tôi phải hi sinh suốt 3 ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi; [còn] tôi cứ phải quanh quẩn trong cái 'phòng đọc sách', chẳng có ma
nào thèm ngó đến ấy.
Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi; như chuyện được ăn một bữa cơm, chứ không phải khoai sắn, hoặc, bo-bo. [Quả] là tôi thấy hạnh phúc, cứ như sắp ra pháp trường; rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không
phải là bạn đồng minh, đã
từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi,
trong những năm qua
-- người đồng minh đó
đã 'gan dạ' cuốn cờ chạy nhanh;
và, chạy xa quá rồi.
Thôi thì, tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.
Một lần khác, tôi lội qua con suối sâu, sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi đi làm phải đi qua một con suối, [đó] là
suối lạnh.
Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt,dịu dàng;
trôi lờ lững trên những tảng đá xanh.
Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn, nước từ những triền đồi vây quanh 4 hướng, ào ạt đổ xuống; chỉ cần nửa giờ sau, con
suối trở nên hung
hãn, nước chảy cuồn cuộn, mang
theo những cành
cây; những khúc gỗ lao băng
băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con
suối trở về; trước khi con
suối trở thành hung
dữ.
Sang gần tới bờ bên kia,
tôi loạng choạng làm đổ cái túi đồ, những thứ lặt vặt, trong đó
có cái muỗng. Ở đây, tôi
thuộc từng khe đá,
tôi không ngần ngại nhoài người xuống để mò. Anh bạn nhảy dù, la
lên,
" bộ ông điên sao?"
Tôi điên thật, hi vọng mình mò được. Nhưng nước chảy xiết quá, tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù què 1 tay; vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi; anh ta lội xa hơn một khúc, rồi khom người xuống, thò một tay ra cái khe hòn đá, là tìm được cái muỗng.
Đôi mắt rất tinh, anh
mỉm cười.
"... tôi biết ông mất cái gì rồi."
4
Chuyện trớ trêu: hơn 12 năm sau; tôi đã trở về, nhưng chưa trả lại cái muỗng cho con
tôi được; vì mẹ con nó đã
vượt biên, định cư ở nước ngoài rồi. Hơn 20 năm, tôi chưa hề gặp lại con gái
tôi. Tính đến năm nay, đã 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi.
Ngày 29 tháng 9, năm 2002 vừa qua, cháu
đã lập gia đình ở Miami,
bang Florida.
Nhận được thiếp báo tin, tôi không biết mình vui
hay buồn.
Hình như, không phải vui hay buồn; một thứ cảm giác kỳ lạ, cứ lơ lửng lẫn lộn.
Chú thím nó + các anh chị nó ở Mỹ, đêu hẹn nhau đi dự đám cưới.
Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả; và, chẳng làm được cái gì cả. Tôi
có cảm giác như mình thừa. Rất may là, trước ngày đám cưới; cô chú nó về Sài gòn, chính tay tôi được tấm thiệp mừng con gái.
Tôi gửi theo cái
muỗng trả lại cho con
gái, như lời hứa từ 27 năm về trước. Vật đó, có thể thay cho sự cò mặt của tôi
không? Tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng: 'gửi cho cháu,
để cháu hiểu rằng; lúc nào
tội cũng coi
như cháu còn nhỏ lắm, như mơi hôm qua, 2 bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó; và, hôm nay trở về. Nhưng, cháu đã đi xa; còn tôi vẫn ở Sài gòn, nơi nó đã sinh
ra. Cháu sẽ nghĩ gì,
tôi không biết.'
Vài hôm sau; có một điều tôi biết rất rõ: 'từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải, như mất mát một cái gì,
xa vắng một cái gì
thân thiết hàng ngày
ở bên mình.
Tôi cho rằng nó cũng
giống như cái cảm giác của những ông bố, bà mẹ cho con gái mình đi lấy chồng xa.
Nỗi buồn lâng lâng
bay chập chờn khắp nơi. Đó chính là sợi dây vô
hình, nối liền mãi mãi
tình thương yêu, dù ở bất cứ nơi nào trên hành
tinh này. Cuối cùng, người ta chỉ còn lại cái tình.
Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng
vẫn còn lại; đôi khi
lại mạnh mẽ, sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó, thì
nó mới mất mãi mãi.
Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ vật đó trên đời, không gì
có thể so sánh được.'
Lẽ ra chuyện này, tôi đã viết ngay từ tháng 9/ 2002, nhân dịp cháu lập gia đình.
Nhưng ngồi mãi trước 'computer'; tôi không gõ được chữ nào, đầu óc lung
tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không
thể làm gì được, ngoài việc cứ để nó tuôn
trào lênh láng; như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi!
Đúng là chuyện của người thì
nhanh; mà chuyện của mình, thì
nghẹn.
Mãi đến hôm nay,
tôi mới ghi lại được những dòng chữ này; nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn, vì nó là thứ chuyện của cả một đời, hay là của muôn đời.
văn quang
Nhận xét
Đăng nhận xét