Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử (Về ngày 2 tháng 11 năm 1963)

Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử
(Về ngày 2 tháng 11 năm 1963)
Tình Hoài Hương

Sau những chấn động kinh khủng xảy từ vụ hăng say hoạt động cách mạng, chống đối, xuống đường biểu tình biểu tọt liên miên bùng nổ, thì lúc nầy tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam (như chiếc ghế cũ chỉ còn ba chân lắc lư gập ghềnh), càng ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”. Thụy Mi nghiệm thấy đằng sau hậu trường có bóng dáng của những tay “mưu đồ chính trị chuyên nghiệp”, họ đã giựt dây... ngầm tạo ra sự vô tổ chức về những đợt sóng bạo loạn cuồng nộ. Có tình trạng những kẻ "trẻ người non dạ rất hỗn” lợi dụng thời cơ… vênh váo thừa nước đục thả câu.
Điều nầy sẽ rất nguy hiểm khi họ có quyền lực trong tay, mà không biết ôn nhu, khoan hoà, khiêm tốn, khôn ngoan, nhứt là phải có tri thức và trung dung. Nói chung, tình hình chính phủ lúc đó quả thật là một xã hội rối rắm như mớ bòng bong trôi bồng bềnh trên biển cả, giống như một chiếc tàu không người lái. Mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã, nhường bước cho sức mạnh bạo lực hổn độn lên nắm chính quyền điều hành.
Dạo ấy, các bạn sinh viên năm thứ hai Văn Khoa, cùng Thụy Mi... tuy còn rất trẻ, nhưng có nhiều băn khoăn, đắn đo, bâng khuâng suy nghĩ về khả năng, tài đức… của những vị “lãnh đạo cách mạng” nầy. Thêm vào đó, dựa vô vài ba dữ kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra về sự kiện lịch sử: cay đắng đến xót xa chua chát bàng hoàng, khiến nó mất đi tất cả lý-tưởng cao trọng trong “công cuộc lãnh đạo kháng chiến”, chẳng thể tín-trung vô lề lối đấu tranh trung-dũng. Cô cảm thấy “sự cách mạng” lạt lẽo, mù mờ, vô bổ, “kháng chiến - khiến chán” từ đó. Hơn nữa, chính lúc nầy chuyện bè phái chính trị hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của Thụy Mi.
Mấy cô muốn tìm riêng cho mình sự thảnh thơi, bình lặng trong đời sống, quyết giữ tinh thần ôn nhu, trung dung trong sáng, không bè phái để tìm một cuộc sống vô-tư-lự, thanh thản, hữu hiệu, thật sự đáng sống; để mình có thể góp phần nho nhỏ giúp ích trong đời, một cuộc đời thực sự bình dị, mến thương nhau, ôn hoà, an lành, có nghĩa có tình như mọi công dân hiền hậu khác: Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù. Không vướng mắc mọi ưu tư ray rứt dày vò ở trong lòng.
Do một tuần lễ công tác trong tổng-hội sinh-viên Việt Nam ở Huế, đã gây cho Mi & Lan bao điều băn khoăn, nghẹn ngào, xót xa quá cay đắng. Vì, khi làm việc với nhau trong tuần lễ đó, có một anh sinh viên sống tại Huế rất qúy mến các bạn từ Sài Gòn, Đà Lạt... đến Huế, anh ta ngầm ngầm báo với họ là:
- Hãy hết sức cẩn thận. Đề phòng. Tính mạng của các anh chị hiện đang nằm gọn trong tay “họ” đó nghe.
Thú thật, các bạn trong nhóm Thu Lan, Thụy Mi không hiểu nỗi mình đi làm thiện nguyện bổ ích cho đời, thì đã có gì sai? Và, khi anh ta nhấn mạnh ở điểm nầy, hai cô chẳng thể biết ra sao, không hình dung chữ “họ” ở đây, là anh ta muốn “ám chỉ” về ai? Ai? Bởi vậy, ban ngày Mi, Lan, và các bạn ghi tên ở khách sạn, nhưng khi đêm về thì cà nhóm cùng nhau lo đi ẩn nấp, chui rúc nơi bờ bụi như lũ chuột. Các bạn ngủ chỗ nầy, khi ngủ dưới ghe bà Nẫm, đến khuya họ lại cho ghe neo đi chỗ khác, lúc lên gần gầm cầu Bạch Hổ, khi chạy về khu Gia Hội. Vân vân...
Đồng thời, Thụy Mi rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” bị đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện chính trị náo loạn dị kỳ, cô quá chán ngán, không muốn mọi thứ ấy luôn thọc mũi dùi vô đời sống sinh viên quấy rối lòng mình nữa! Bởi vì; (tất nhiên trong đó có cả các anh chị bạn, và... nhứt là có người yêu dấu của cô).
Cô cảm nhận ra rằng ở tại miền Trung bấy giờ hoàn toàn do nhóm sinh viên sừng sỏ hùng hậu chi phối chính quyền địa phương. Đấy là dấu hiệu “loạn” đã lên cao độ rồi. Cái nền độc lập tự do dân chủ vừa mới sơ sinh, mà manh nha nhiều thủ đoạn gian tà “rối” như thế nầy, thì… tương lai đất nước sẽ tối đen như đêm ba mươi Tết.
Theo thiển ý của Thụy Mi: nếu tham gia làm cách mạng (vì người ta thực sự yêu nước, muốn cùng nhau xây dựng một quốc gia hùng cường, nâng đất nước lên tự do hưng thịnh, vinh sang và trường tồn); thì ta không chỉ chìm đắm bới móc quá khứ, mà khư khư ôm hận thù. Điều cần thiết và cấp bách là muốn thực thi cách mạng, trước tiên ta cần phải an-nội.
Thế nhưng… giờ đây thanh niên là rường cột của quốc gia, đang giống như con dao hai lưỡi. Rồi mọi chuyện sẽ đến đâu? đi đâu? về đâu? Thật ra đám sinh viên thiện nguyện đi Huế công tác bây chừ cảm thấy buồn bã, băn khoăn chán nản lên tột đỉnh. Có thể nhận thức của họ về vài vấn đề nào đó còn eo hẹp, khiếm khuyết, nông cạn, không hữu hiệu, phiến diện và ít sắc bén trong suy nghĩ, nên họ không thể đạt được sự cảm thông và khuyến khích với “những vị có hào quang chói lọi trên đài danh vọng khi đi làm cách mạng kháng chiến cứu... bồ" chăng.
Thế nhưng khi Mi nghe: Albert Einstein (1879-1955) đã nói: “The world is a dangerous place to live, not because of the people who are evil but because of the people who don’t do anything about it”. (Thế giới là nơi nguy hiểm để sống, không phải chỉ vì bọn cùng cực hung ác, mà còn vì những người ù lỳ, không làm bất cứ một điều gì, để trừ khử cái ác ấy). Hoặc giả như Napoléon Bonaparte (1769-1821) đã trầm ngâm suy tư: “Le monde souffre enormément, non pas à cause de la violence des gens malsains mais à cause du silence des gens braves”. (Thế giới chìm đắm trong đau khổ, không phải chỉ vì bạo lực của bọn ác, mà còn vì sự im lặng của người tử tế).
Thế thì ta có nên nên cúi đầu lanh lẹ quay gót, lo thụt lùi lui xa khu chính trường, không hề dám ngoảnh lại len lén liếc nhìn… hay không nhỉ? Bởi, Mi còn nhớ rất rõ: Buổi chiều đó, một buổi chiều có mây trắng bồng bềnh bay bay trên lưng trời, có nắng nhè nhẹ rót xuống thế trần, có gió mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh vật êm ả bình thường như bao buổi chiều trước. Có khác chăng là một tí nữa đây Thụy Mi, Ngọc Lan và ba anh bạn sẽ trở thành số ít người hiếm hoi, tận mắt chứng kiến một sự việc đặt biệt ghi đậm nét như một dấu ấn lịch sử: Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy: đã có nhiều dư luận, có nhiều lý thuyết, có nhiều phán đoán, có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy” về những nhân vật trọng đại, liên hệ đến lịch sử Việt Nam.
Đó là một buổi chiều định mệnh… vô cùng đớn đau bi thảm từ ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone đến nhà Năm Anton. Trong nhà Năm có thêm bạn: Trung, Thạch, Thụy Mi, Ngọc Lan ngồi gần bàn làm việc. Năm bắt phone và chuyển cho ông Ba chủ trại hòm Tobia. Sau một hồi trao đổi, giọng ông Ba trở nên lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức bách lắm. Cuối cùng ông Ba thở dài, buông phone và cây viết bis xuống quyển sổ dày, ông Ba Tobia e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ rồi ngập ngừng nói nhỏ:
- Tổng thống, và ông cố vấn đã chết lúc 11 giờ 15’, họ đọc cho tôi nghe rõ từ giấy chứng tử hai ông, do Đại-úy y sĩ trưởng bệnh xá hành dinh Tổng Tham Mưu khám nghiệm, thành lập hồ sơ. Hai ông đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lệnh của ông Dương văn Minh, sát thủ là Nguyễn văn Nhung giết hại rùi.
Sửng sốt, bàng hoàng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vội túc trực trong phòng khách, mở radio lên lắng nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh đã thành công. Ông Minh tuyên bố: “Tôi tạm thời lãnh đạo quốc gia”. Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu, nhưng luôn luôn nói đi nói lại: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc tẩu thoát đâu đó”…
Chẳng nói chẳng rằng, ông Ba vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ tới xưởng hòm chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống Diệm và ông cố-vấn Nhu. Ở nhà kho của ông Ba có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Có một cái hòm tốt nhứt bằng gỗ gia tỵ rất quý hiếm, bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý ông Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh láng cón của quân đội Mỹ rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp đệm nhung mỏng, êm ái như tấm đệm giường ngủ, hòm có thể dễ dàng mở nắp ra đóng vào bằng kính, lộ cả khuôn mặt người quá cố, cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng, hòm có chốt cài bên hông. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ hẳn ra ngoài. Ở Việt Nam chưa bao giờ xuất hiện loại hòm tân thời như vậy.Lẽ ra là chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ qúy hiếm nầy sẽ đựng thi hài của một viên Tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu tại sao họ lại vất bỏ chiếc quan tài ấy ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhứt!? Tình cờ ông Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên ông Ba nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác, ông đã mua lại đem về trưng bày trong tiệm cuả mình, coi chơi. Ai tới tiệm mua giá cao cỡ nào, ông cũng không bán. Thế là ông Ba quyết định:
- Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi.
Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, trong nhà họ chuẩn bị sẵn sàng; chờ lệnh. Gần 4 giờ chiều, phone của ông Trần Trung Dung gọi:
- Ông vui lòng đem khuôn hòm tới nhà xác bệnh viện Saint Paul đường Tú Xương. Tuyệt đối không được đông người đi theo. Xe chỉ mỗi lần một cái hòm thôi.
Ông Ba nêu ý kiến:
- Có nên lấy thêm một xe nữa đi theo xa xa xe kia không?
- Không. Chở từng hòm một, cách xa nhau nửa giờ. Đem cái “đầu tiên” đi trước.
Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi (ý họ muốn nói đến “cái đầu tiên”: là khuôn hòm của Tổng-thống Diệm, sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có bà chủ tiệm hòm, Năm, Mi & Thạch, Trung, Lan, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vô đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc giờ giới nghiêm, thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Mi mới thấy phe cách mạng lật đổ chính phủ đã cho cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vô nhà xác.
Ngoài các anh: Năm, Thạch, Trung, Mi, Lan, bà chủ tiệm Tobia và bốn đạo tỳ ra, còn có hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của tổng thống đang lăm le chiếc máy ảnh trong tay. Khi xe tang vô tới bên trong, thì một soeur rón rén, lấp ló, len lén nhìn trước ngó sau, coi soeur có vẻ gian, sợ sệt lén lút, như người làm chuyện mờ ám gì, chả biết. Hình như soeur có lệnh trước, đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền.
Trong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù, leo lét, treo lơ lửng tòn ten trên trần. Bốn đạo tỳ đem quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng một giờ sau, thì có một chiếc xe hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân nhảy phóc xuống, họ vội vàng khiêng chiếc băng ca lắc lư nhún nhảy. Trên đó có một người nằm cũng nhún nhảy lắc lư theo nhịp bước mau. Họ đưa băng ca vô hẳn phía trong, để xuống dưới đất. Chả buồn nhìn ai hay nói câu nào, họ lo cúi đầu vội vã quay trở ra, nhảy tọt vô xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy lao vút đi trong sự im lặng hãi hùng…
Lúc bấy giờ cả nhóm liền bước tới đứng sát bên băng ca: người nằm trên băng ca là vị tổng thống kính mến của nền Đệ Nhứt Cộ̣ng Hòa miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm (1901-1963). Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc tất trắng. Cả bộ comple chìm trong màu máu, trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu, bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên, im lặng, dường như tổng thống chìm trong giấc ngủ bình an không muộn phiền, chẳng khổ đau…
Ánh sáng vụt loé lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm ảnh. Chả hiểu ông cháu nầy lúng túng, run rẩy, sợ hãi, lo lắng hay sao, mà ông lại vội cất dấu máy hình, không chụp thêm mà lại ngưng? Hay ông thấy cảnh máu me lan tràn như vậy, thật hãi hùng và đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi?! Đạo tỳ khiêng xác ngài lên, đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Bà chủ tiệm nói với mọi người và hai soeur:
- Nhờ lấy bông gòn, compresse nhúng đầy alcohol, lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, lau rất cẩn thận các vết máu cho tổng thống giúp tôi.
Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần, chu đáo sửa sang áo quần Tổng-thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẫn liệm ngài đàng hoàng. Bà chủ tiệm hòm lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vô tay tổng thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay ông đã nhẹ nhàng khép lại dễ dàng để giữ xâu chuỗi, như ông đang lim dim đọc kinh lần hột. Mọi người hiện diện nín thở, có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp, thở hụt hơi: Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Bẽ bàng xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu xa. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh ngắn ngủi!
Họ chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy đã trờ tới nhà xác. Cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lại lật đật bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur vội vàng khép mau cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay ngực đẫm máu. Áo bỏ trong quần màu nâu xộc xệch, thắt dây lưng da, chân mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu nghiêm nghị có vẻ bất bình điều gì, vầng trán cao cau lại với nhiều nếp nhăn. Đôi môi ông mím chặt. Không ai thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt thản nhiên của người anh). Ông nằm hơi nghiêng qua một bên, ông bị nhiều vết đâm sau lưng, loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên qua bên kia.
Công việc tẫn liệm cũng tuần tự diễn ra cẩn thận, nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy quả thật nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc, mà họ đã kềm sâu trong tim, để khóc thương một kiếp người phù sinh: khi hai vị đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc họ lìa đời thì quá ư bẽ bàng, xót xa bạc phận!? Hoặc những người chứng kiến cảnh đau lòng kia sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm; nơi con người thực sự đã bước chân tới cõi hư vô nghìn trùng xa xăm? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết: chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, chia xa bởi một bức màn sô vô hình tầm thường mà mong manh như sương khói. Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt, chạm tay qua biên giới vô hình bên kia, và càng không thể biết thêm gì nhau hơn! Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình, cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy trở thành bất động, lung linh như ảo ảnh hư vô mà vô cùng sống động, thực tế và quá đỗi thương tâm.
Các bạn: Mi, Lan, Năm Tony, Thạch, Trung sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ hình ảnh bi thương ấy trong trí óc. Vì, rất thật, quá thật tình cờ… vô tình mình đã làm chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức nhận rõ ràng: cuộc sống sao quá mỏng manh như một bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời rám bạc. Như cành cây oằn thân trong bão khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào!
Thụy Mi cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nghẽn nỗi đau trong cổ, cô vội kéo Năm Anton, Thạch, Trung, bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, là mong cho dễ thở và thoáng hơn. Ngay lúc đó, Mi thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay vung cao hò la, hét tướng lên: đả đảo “chế độ gia đình trị họ Ngô”. Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ-trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ Tổng Ủy-trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954).
Họ lao vô nhà ông Lương đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc “biết đi” biến sạch hết. Thậm chí Lan còn thấy có mấy người bưng hai con chó Nhật, con chó sợ hãi nhìn quanh, như nó đang muốn tìm cố chủ. Đám biểu tình nhốn nháo bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh-sát Dã-chiến tới nơi. Họ can ngăn kịp thời. Ôi! "cuộc Cách Mạng" phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống, đi qua và đi lại? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ, và những tháng năm sau nầy phán xét.
Nghe tiếng bà chủ Tobia gọi, các anh, chị, vội chạy trở về nhà xác: khi hai chiếc xe hồng thập tự Ambulance đã tới lấy quan tài anh em họ Ngô. Họ nói với tài xế: “Vô Bộ Tổng Tham Mưu”. (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển xác anh em tổng thống vô Bộ Tổng Tham Mưu. Sự vụ lệnh văn thư số 836 TTM/vp ngày 7-11-63 do ông Trần Trung Dung khẩn thiết xin được chôn cất hai thân nhân, thì ngày 8/11/63 TTM có triệu tập buổi họp nầy. Hiện diện có: Trưởng ban nghi lễ bộ TTM: Trung-tá Lê Văn Soạn. Đại đội I mai táng: Đại-úy Đỗ Văn Giương. Trưởng ban An Ninh quân đội của bộ TTM (đại diện Nha An-ninh Quân-đội VNCH: Trần Ngọc Giang. Tiểu đội trưởng Hiến-binh Tân Bình: Trung-sĩ Hiến-binh: Nguyễn Tân Phương. Trung-tá Lương dẫn ban kiểm soát mai táng đi quan sát lại hai quan tài, và chỉ định nơi an táng cho hai ông là khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa Hùng Quốc Tự, gần mộ phần ông Lê Văn Phong (triều thần đời Nguyễn, là bào đệ của đức Tả-quân Lê Văn Duyệt). Hiện diện, làm việc cấp tốc lúc bấy giờ còn có vị linh mục người Pháp Claude Laire đại diện toà khâm mạng Sài Gòn chủ lễ, ông bà Trần Trung Dung, Ủy ban kiểm soát, & một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu.
Thế rồi tiếp theo sau mấy cuộc đảo chánh. Chỉnh lý. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn:
- Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời đi ngay.
Thế là bên phòng mai táng ở quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hòa lại cho mời ông Ba Tobia tới, họ bàn trước tính sau cặn kẽ, nhờ ông Ba làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng có chiều cao 1m30, ngang 1m20, dài 2m50. Ông Ba lại cho đạo tỳ lên bộ Tổng Tham Mưu lén lút, hì hục đào bới hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu suốt canh thâu không ngưng nghỉ; từ choạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ông Ba đem hai thi thể ông Diệm và ông Nhu về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, khu lăng mộ Mạc Đỉnh Chi được bao bọc bởi bốn bức tường gạch quét vôi vàng cao khoảng 2,5mét, rộng khoảng 7,5 hecta. (Mộ ở Mạc Đỉnh Chi thường có chữ: R.I.P. ; có nghĩa là: Rest in peace).
Khi hạ rồng rồi, ông Ba có lệnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy. Bên trên mặt chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Tuyệt đối ông Ba không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng trên bia mộ gì cả. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác. Vì nền Đệ Nhị Cộng Hoà “họ” sợ dân biết tin hai vị ấy đã nằm đó, dân sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ (!?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành!? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin:
- Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi, không hình bóng nầy: là mộ phần của anh em Tổng-thống Ngô Đình Diệm.
Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vô thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, họ liền đi vào cổng chính, đến đoạn giữa “hai ngôi mộ Anh Em”, nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, tráng lệ nhìn qua “hai anh em: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ”. Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia, thì trên hai ngôi mộ đơn sơ đạm bạc đớn hèn khiêm tốn nầy, lại luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói, có đóa hoa tươi màu thay đổi mỗi ngày, có bốn ngọn nến sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như người dân dù sợ hãi người khác thanh trừng, nên chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người dân hiền lương ẩn danh nghèo hèn như thầm nói:
- Vĩnh biệt Tổng Thống Diệm. Vĩnh biệt ông Cố-vấn Nhu. Xin các ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì, đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng, chỉ là đổi mới những sự kiện, và những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị an nhàn bình thản ra đi… hạnh phúc phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam. Xin quý ngài phù hộ cho dân lành được ấm no, bình an hạnh phúc thật sự, như qúy vị hằng đợi mong. Xin qúy vị hãy lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người hết sức trắng trợn độc ác tham tàn và… xin hãy tha thứ cho con người rối rắm hèn kém suy nghĩ kia, những kẻ đã tàn nhẫn hại mình.
Kiếp người ô trọc đảo điên và phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Vì Thụy Mi tôi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối lịch sử buông tiếng thở dài sâu lắng, trầm buồn, ngậm ngùi trên mỗi phím loan: Ối ôi ồi!!! …
***
Mãi về những năm gần đây, sau nầy thôi, thì hài cốt "huynh - đệ: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ" (trên bia mộ vẫn không ghi tên thật, ngày tháng năm gì cả) lần thứ ba thân nhân đào lên, cải táng cho nhị vị về an nghỉ tại “Nghĩa-trang số 6”, Lái Thiêu – Bình Hoà – Thuận An – thuộc Bình Dương.
Lần nầy, Thụy Mi, chắp đôi tay khẩn thiết cầu xin Thiên Chúa cho quý "Huynh-Đệ" thật sự bình an, được yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất quê hương Việt Nam. Xin đừng "bới móc thi hài người quá cố" lên thêm lần thứ bốn làm chi nữa! Đã quá đủ rã rời chua xót đắng cay thảm thương lắm rồi!
* * *
Tình Hoài Hương

Nhận xét

Bài được quan tâm

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 209