Nhìn lại các trường nữ trung học nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975
Nhìn lại các trường nữ trung học nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975
Không rõ lý do vì sao ở miền Nam trước 75 thường phân chia riêng biệt trường nữ và trường nam trung học. Những tà áo dài thướt tha của các trường nữ sinh như Gia Long, Lê Văn Duyệt, Đồng Khánh (Huế), Trưng Vương… như những cánh bướm lượn mãi trong ký ức về một thời thanh bình, tươi đẹp.
Trường
trung học nữ sinh Trưng Vương (Sài Gòn)
Trường nữ sinh Trưng Vương, tiền thân là trường nữ trung học Trưng Vương từ Hà Nội di cư vào Nam sau năm 1954 nên đội ngũ giáo sư học sinh ban đầu chủ yếu là gốc Bắc.
Trường Trưng Vương ban đầu phải học nhờ tại Gia Long, nhưng sau đó trường đã có cơ sở và khuôn viên riêng. Cụ thể là năm 1957, trường dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần Thảo Cầm Viên Sài Gòn và cũng gần trường nam sinh Võ Trường Toản nữa. Do vậy, có rất nhiều mối tình thuở thiếu thời Trưng Vương – Võ Trường Toản; chúng vẫn đẹp mãi trong lòng những người cựu sinh viên hai trường. Có nhiều anh chàng nam sinh Võ Trường Toản đã tinh nghịch trèo tường sang Trưng Vương chơi đã trở thành những kỷ niệm đáng nhớ.
Ai đã từng đi qua hàng cây trên con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày xưa thì sẽ hiểu vì sao chỉ một mùa thu qua, mà nhạc sĩ Nam Lộc đã bâng khuâng với cảm giác nắng vương nhẹ gót chân, với lá rơi đầy sân. Cảm giác ấy có lẽ sẽ được những nữ sinh Trương Vương ngày đó mang theo trong ký ức của họ đến mọi nẻo đường trong cuộc đời.
(Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu – Lời Việt: Nam Lộc)
Trường trung học nữ sinh Gia Long (Sài Gòn)
Trường
Gia Long là một trong những ngôi trường nữ sinh nổi tiếng một thời có lịch sử
tới hơn 100 năm. Trường được mở từ thời Pháp thuộc dưới kiến nghị của nghị viên
hội đồng Quản Hạt Nam Kỳ Lê Văn Trung và vợ tổng đốc Phương cùng với một số
nhân sĩ khác.
Đằng sau một ngôi trường thơ mộng từng được mệnh danh là trường “nữ sinh áo tím” (vì trước đó nữ sinh Gia Long nổi tiếng với màu áo tím) là khát vọng về một xã hội tự do, nơi có nam nữ bình quyền – đều có quyền được sống, được hưởng một nền giáo dục và học tập ngang nhau.
Trường nữ
Gia Long là niềm tự hào của biết bao nhiêu nữ sinh thời ấy. Có thể nói cho đến
tận bây giờ, hai tiếng Gia Long vẫn có thể thay cho tiếng chào kết bạn, là sợi
dây kết nối khi họ tình cờ gặp nhau ở bất cứ nơi nào trên thế giới, là niềm tự
hào của người thiếu nữ trưởng thành trong một nền lễ giáo của gia đình miền Nam
thời ấy.
Nữ sinh Gia Long
Trong âm
nhạc, những bóng dáng thướt tha của nữ sinh Gia Long được nhạc sĩ Nguyễn Văn
Đông ghi lại trong ca khúc Cô Nữ Sinh Gia Long:
Bài hát
này kể câu chuyện tình giữa cô nữ sinh và người lính.
Võ Thị
Hai, một cựu nữ sinh Gia Long, hồi tưởng lại một thời áo trắng của bà và của
những người cùng thế hệ:
“Có lẽ
đại đa số cựu nữ sinh Gia Long chọn người yêu đi lính là một sự vô tình, không
phải là sự chọn lựa. Vì thời đó là thời loạn, đại đa số thanh niên phải đi nhập
ngũ, làm nghĩa vụ của người trai. Có những người trở về, có những người mất
tích, một thiểu số ở lại nếu họ bị thương.
Những mối
tình của nữ sinh Gia Long rất trong sáng, tuyệt đặt trong vòng lễ giáo, không
bao giờ vượt quá lễ nghi của gia đình miền Nam Việt Nam lúc đó.”
Cuộc tình
của cô nữ sinh và người chiến sĩ trong nhạc phẩm của Phượng Linh (bút danh của
nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông) là một trong rất nhiều cuộc tình khác đã nảy sinh
trong thời kỳ loạn ly ấy. Ông gọi cô gái của mình với cái tên chung là cô nữ
sinh Gia Long, đơn giản như món quà là màu hoa thép súng của người lính trao
tặng cô ngày anh lập chiến công.
Trường nữ
sinh Lê Văn Duyệt (Sài Gòn)
Khác với
sự lâu đời của trường Gia Long và Trưng Vương, trường nữ Lê Văn Duyệt hiện ra
với dáng dấp năng động của một ngôi trường nữ sinh trẻ.
Cũng như
Gia Long, trường Lê Văn Duyệt “made in Saigon” chính hiệu, nhưng có tiền thân
là trường Trương Tấn Bửu đào tạo cả nam và nữ. Sau khi tách cả nam nữ ra thì
trường nữ sinh Lê Văn Duyệt được thành lập tại số 95 đại lộ Lê Văn Duyệt – vốn
là một lô đất mới (nay là đường Đinh Tiên Hoàng).
Nhiều
người thắc mắc tại sao một trường nữ sinh lại mang tên một nam nhân vậy? Có lẽ
ngày xưa trường Trương Tấn Bửu tọa lạc gần nơi thờ Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt
(Lăng Ông – Bà Chiểu), lại nằm trên đường Lê Văn Duyệt nên người ta lấy tên ông
đặt tên cho trường.
Có người
đã nói về cái tên trường như sau: “Tiếc thương cho người em Lê Văn Duyệt,
không phải vì thua kém đàn chị Gia Long hay Trưng Vương, nhưng tại cái tên… khó
đưa vào văn thơ quá nên chẳng thể nào khớp được vào thơ ca của Phạm Duy”.
Vào năm
1963 thì trường chưa có lớp đệ nhất nên nữ sinh phải chia tay trường sang Trưng
Vương học lớp đệ nhất. Nhưng sau đó thì các lớp đệ nhất đã được mở thêm. Sau
năm 1975, trường mang tên Võ Thị Sáu đào tạo cả nam lẫn nữ.
Trường nữ
sinh Đồng Khánh (Huế)
Trường nữ
sinh Đồng Khánh là trường dành cho nữ sinh duy nhất ở miền Trung. Trường đặt
tại Huế, miền đất của nét trữ tình và lãng mạn.
Lễ đặt
viên đá đầu tiên xây dựng ngôi trường này diễn ra vào ngày 15 tháng 7 năm 1917,
với sự hiện diện của Vua Khải Định, Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraaut, Khâm
Sứ Trung Kỳ J.E. Charles, quyền Khâm Sứ Bắc Kỳ J.Le Galler, các hoàng thân, các
vị Thượng Thư và một số quan chức cao cấp người Pháp tại Đông Dương.
Trong
buổi lễ này, vua Khải Định đã cho đặt xuống móng ngôi trường một số hiện vật để
làm kỷ niệm, gồm một cái hộp kim loại chứa 10 đồng Khải Định thông bảo và hai
tờ giấy ghi biên bản của buổi lễ bằng tiếng Pháp. Dưới sự điều khiển của nhà
thầu Leroy, gần hai năm sau, ngôi trường khánh thành.
Đây là
ngôi trường nữ đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh cả 13 tỉnh Trung Kỳ bấy
giờ đến học. Theo thời gian, trường được mang nhiều tên gọi khác nhau:
Nhạc sĩ
người Huế – Thu Hồ (thân sinh của ca sĩ Mỹ Huyền) đã có bài hát nói về những cô
gái Huế nữ sinh Đồng Khánh như sau:
Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơiCô đi về đâu tan buổi học rồiCô xuôi Đập Đá hay về Nam GiaoCô về Bến Ngự hay về Đông BaCô về Vỹ Dạ hay ngược Kim Long…Khi gió mới lên làn tóc tung tăngXõa ngang bờ vai khi tuổi dậy thìĐôi môi hồng thắm duyên là nên duyênMắt tròn như mộng say đời xinh xinhCô là tất cả trời đẹp xứ Kinh…
Trường Nữ
Trung Học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt)
Trường
Bùi Thị Xuân được thành lập năm 1952 với cả nam và nữ theo học, là trường nữ
công lập đầu tiên ở vùng tây nguyên. Đến năm 1957 thì trường chỉ đào tạo nữ
theo yêu cầu của Bộ Giáo Dục VNCH. Nam sinh được chuyển sang trường Trần Hưng
Đạo.
Trái với
Trưng Vương, Gia Long hay Lê Văn Duyệt nằm ở chốn đô thành náo nhiệt, Bùi Thị
Xuân mang vẻ đẹp êm ả của xứ Đà Lạt mộng mơ. Do vậy mỗi khi nhắc đến Bùi Thị
Xuân là nhắc đến Đà Lạt, một vùng đất quanh năm sương phủ đẹp đến nên thơ, nơi
mà nhạc sĩ Lam Phương đã viết lên khúc huyền thoại Thành Phố Buồn.
Tuy vậy,
trường có vị trí khá gần với những vùng chiến sự ác liệt của một thời nên cũng
trải qua biết bao thăng trầm, trôi nổi cùng lịch sử. Với những người nghiên cứu
về các trường nữ sinh xưa, không ai có thể quên hình ảnh cô hiệu trưởng Lệ Minh
– đóa hồng một thời. Cô là một người phụ nữ đẹp, có đủ tài lẫn sắc. Hiện cô
đang định cư tại Hoa Kỳ.
Hiện nay,
trường Bùi Thị Xuân vẫn giữ nguyên tên và được xem là một trong những trường
học lớn, số lượng học sinh đông và có tuổi đời lâu nhất của thành phố Đà Lạt.
Trước khi
ngôi trường chính thức mang tên Bùi Thị Xuân năm 1957 cho đến nay thì đã từng
mang nhiều tên khác nhau:
Đầu thập
niên 1950, để đáp ứng nhu cầu học tập cho con em người Việt Nam ở đây, chương
trình Trung học Việt Nam đã được thiết lập với sự ra đời của trường Trung học
Việt Nam (Lycée Vietnamien) vào tháng 9 năm 1952 với địa điểm đầu tiên tại
trường Tây Hồ (nay là trường THCS Phan Chu Trinh). Lúc này, trường chỉ có duy
nhất 1 lớp Đệ thất (lớp 6). Trường trở thành một trong 3 trường trung học công
lập của Đà Lạt lúc bấy giờ là trường Lycée Yersin và trường Lycée Bảo Long.
Năm 1953,
trường chuyển sang mượn tạm địa điểm tại trường tiểu học bổ túc Đà Lạt (nay là
trường tiểu học Đoàn Thị Điểm). Lúc bấy giờ trường có 3 lớp: 2 lớp Đệ thất (lớp
6) và 1 lớp Đệ lục (lớp 7).
Năm 1954,
trường được chuyển về địa điểm hiện nay, lúc đó vừa mới được xây xong. Trường
lấy tên là trường Phương Mai – tên của công chúa, con gái Quốc trưởng Bảo Đại
và chỉ có một dãy nhà A gồm 10 phòng học. Do hệ quả của Hiệp định Genève được
ký kết vào ngày 20/07/1954, rất nhiều người dân đã di cư từ phía Bắc vào miền
Nam và định cư tại Đà Lạt, số học sinh của trường vì vậy cũng tăng lên khiến
trường phải mở thêm các lớp Đệ ngũ (lớp 8), Đệ tứ (lớp 9).
Năm 1955,
khi Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế sau một cuộc Trưng cầu dân ý do chính
quyền Ngô Đình Diệm tổ chức vào tháng 5, trường Phương Mai được đổi tên thành
trường Quang Trung. Trường mở thêm Đệ nhị cấp (Tương đương cấp THPT hiện nay).
Năm 1957,
trường Quang Trung được đổi tên thành trường Bùi Thị Xuân và mang tên này cho
đến nay.
Trường
trung học Marie Curie (Sài Gòn)
Ngay khi
chiếm xứ Nam Kỳ, người Pháp đã thiết lập trường học để giảng dạy tiếng pháp và
tiếng An Nam, mở trường bổn quốc và trường nữ (trường nữ là Trường Marie Curie
sau này). Như vậy, Trường Marie Curie được thiết lập trong khoảng từ năm 1858
đến 1862 (năm Pháp dành quyền bảo hộ xứ Nam Kỳ theo Hòa ước Nhâm Tuất 1862).
Trường
mang tên nữ bác học Marie Curie từ năm 1918, là trường dành riêng cho nữ sinh,
với tên gọi ban đầu là Cao đẳng tiểu học nữ sinh người Pháp (Ecole Primaire
Supérieure des Jeunes Filles Françaises) Lycée Marie Curie.
Sau khi
Nhật tiến vào Đông Dương năm 1941, trường bị trưng dụng làm bệnh viện nên phải
chuyển địa điểm sang một trường mẫu giáo ở đường Phạm Ngọc Thạch ngày nay.
Một năm
sau, trường được trả lại và dời về địa điểm cũ với tên gọi mới là Trung học cơ
sở Calmette.
Sau khi
quân Pháp trở lại chiếm Sài Gòn vào ngày 23 tháng 9 năm 1945, trường được đổi
tên thành Trung học Lucien Mossard.
Đầu năm
1948, trường trở lại với tên gọi cũ là Trung học Marie Curie (hay Lycée Marie
Curie), mang tên nhà khoa học người Ba Lan – Pháp từng hai lần đoạt giải Nobel
Vật lý.
Trong
thời kỳ VNCH, trường là trường trung học tư thục cho nữ sinh. Đến năm 1970,
trường mới tiếp nhận thêm nam sinh theo học.
Sau 1975,
Trường Marie Curie đổi tên thành Trường Phổ thông cấp 2&3 Marie Curie (cũ)
cho hai niên học (1975-1976 và 1976-1977); đến niên học 1977-1978, trường không
còn dạy các lớp cấp 2 phổ thông hệ 12/12 năm, chỉ dạy cấp 3 phổ thông hệ 12/12
năm (lớp 10, 11 và 12 các khối AB – C – D) nên Trường Phổ thông cấp 2&3
Marie Curie (cũ) đổi tên thành Trường Phổ thông trung học Marie Curie…
Năm 1997,
trường được đổi tên thành Trung học phổ thông bán công Marie Curie. Trước đây, trường
từng là trường trung học phổ thông lớn nhất Việt Nam với hơn 5000 học sinh mỗi
năm.
Năm 2006,
trường được chuyển sang hệ công lập với tên gọi Trung học phổ thông Marie Curie
cho đến nay.
Ngôi
trường này có kiến trúc đậm chất Pháp lưu lại trên cổng chào, từng góc cầu
thang gỗ, khu vườn với đài phun nước… vẫn còn cho đến ngày nay.
Trường
trung học Nguyễn Bá Tòng (Sài Gòn)
Năm 1956,
trường được thành lập mang tên vị Giám Mục tiên khởi của Công Giáo Việt Nam có
sự trợ giúp đặc biệt của cơ quan Caritas Germanica Đức Quốc, cơ quan NCWC, Công
Giáo Hoa Kỳ. Trường tọa lạc tại số 73-75 đường Bùi Thị Xuân, quận 1 Sài Gòn.
Trường có nhiều cấp lớp từ đệ thất đến đệ nhất đủ các môn A, B, C đặt dưới quyền đìều khiển của 8 vị linh mục cùng với sự giáo dục của 160 vị giáo sư, 30 nhân viên văn phòng (ghi nhận vào năm 1963). Là một trường trung học tư thục nhưng trường được đánh giá cao trong việc giáo dục, uy tín nhất thủ đô. Từ năm 1971 trường chỉ dành riêng cho học sinh nữ. Từ năm 1975, trường trở thành trường trung học phổ thông công lập và trường được đổi tên thành trường THPT Bùi Thị Xuân, dành cho cả học sinh nam và nữ.
Ngôi
trường này cũng là nơi đã sản sinh nhiều người nổi tiếng, trong đó có ca sỹ Mai
Hương, Khánh Ly, Ý Lan. Một số thầy giáo đã dạy trường này như Nhạc sỹ Thu Hồ
(nhạc), Nhà văn Bùi Nhật Tiến (Lý hóa), Nguyễn Văn Kỷ Cương (Tóan), Linh mục Đỗ
Đình Tiệm làm Hiệu Trưởng.
Trường
trung học Saint Paul (Sài Gòn)
Khi đi
ngang ngôi nhà trắng tại số 4 Cường Để, quận 1 (nay là Tôn Đức Thắng) mọi người
chỉ biết đây là một nữ tu viện. Tòa nhà này trước kia còn được gọi là “Nhà
Trắng”, không phải vì sơn toàn màu trắng như Tòa Bạch Ốc (White House) mà vì
ngôi nhà này được xây dựng và làm chủ bởi những nữ tu dòng Saint Paul de
Chartres (Thánh Phaolô thành Chartres) “trinh bạch từ linh hồn đến những chiếc
áo dòng trắng toát”.
Trước năm
1975, trong nhà dòng này có một trường tư thục với các lớp từ mẫu giáo tới tú
tài với số lượng 1.600 học sinh (có ký túc xá cho học sinh nội trú). Sau năm
1975, có một thời gian là Trường Sư Phạm Mầm Non.
Nếu ai có
dịp vào đây sẽ choáng ngợp với không gian rộng rãi, khoáng đãng với kiến trúc
ba khối nhà: cô nhi viện, nhà nữ tu ở và khu nhà nguyện. Khu nhà nguyện có
thiết kế đặc biệt, nhìn từ trên cao xuống rất giống cây thánh giá, bên trong có
thêm nhiều cột đỡ vững chãi, phía trước là một sân cỏ rộng với tượng thánh bổn
mạng của dòng Phaolô. Đó là thiết kế mà theo nhận định của kiến trúc sư Ngô
Viết Thụ là: “Một giáo đường huy hoàng với đường nét thẩm mỹ lối Gothique.
Các khu vòm hình liềm cung, đua nhau vượt lên tới 20 thước, không một chút chạm
trổ hoa hòe làm cho khách tưởng nhớ đến giáo đường Sainte Chapelle. Cảm tưởng
nhẹ nhàng vì sự thành công của vị kiến trúc sư làm cho ai vào đó cũng cảm thấy
thoát tục…”
Theo các
tài liệu lịch sử truyền giáo, vào ngày 20/5/1860, các nữ tu dòng Thánh Phaolô
gốc ở thành Chartres (Soeurs de Saint Paul de Chartres) từ Hong Kong đặt chân
đến Sài Gòn. Họ cùng tạm định cư tại một căn nhà nhỏ vùng chợ cũ cùng các nữ tu
dòng kín (đến Sài Gòn năm 1861).
Vào tháng
9/1862, mẹ bề trên dòng thánh Phaolô Benjamin khởi công xây cất nhà giám tỉnh
tại khu đất Đường Thành (Rue de la Citadelle). Toàn bộ công trình này hoàn
thành vào ngày 10/8/1864. Trong bản thảo viết tay của mẹ Benjamin chỉ ghi lại
tên kiến trúc sư là Thầy Học. Lúc ấy các bà phước chẳng biết kiến trúc sư “Thầy
Học” là ai. Không biết trước đây đã có tài liệu nào xác định Thầy Học là ai
chưa.
Riêng cụ
Vương Hồng Sển trong quyển Sài Gòn năm xưa in năm 1958 cho biết: “Tương
truyền nhà lầu cao lớn nơi đây là do ông Nguyễn Trường Tộ năm xưa đứng coi xây
cất”. Vậy Thầy Học, tức là ông Nguyễn Trường Tộ là người thiết kế, xây cất
tòa nhà này? Trong tạp chí Văn Đàn (số 4 năm 1961, Sài Gòn) ông Phạm Đình Khiêm
đã công bố nhiều tài liệu trong thư khố tu viện đã chứng minh Thầy Học chính là
ông Nguyễn Trường Tộ.
Trường
Couvent Des Oiseaux (Đà Lạt)
Trường nữ
tu Couvent Des Oiseaux có vị trí khá đặc biệt khi không nằm trên địa hình bằng
phẳng, mà là một đồi thông, thuộc số 2 đường Huyền Trân Công Chúa, khá gần thác
Cam Ly, Đà Lạt…
Về lịch
sử của ngôi trường, thì cần nhắc đến người thiếu nữ Nguyễn Hữu Thị Lan, là tiểu
thư khuê các trong gia đình đại phú hộ Sài Gòn xưa. Bà vốn là nữ sinh của
trường nữ tu dòng Đức Bà tại Paris (Cours des Champs-Élysées, rue de Ponthieu).
Sau khi
về nước, kết hôn với vị Hoàng Đế cuối cùng của triều Nguyễn là vua Bảo Đại, trở
thành bậc mẫu nghi thiên hạ, với tước hiệu Nam Phương Hoàng Hậu, bà đã giúp các
vị nữ tu dòng Đức Bà mở trường Công Giáo đầu tiên ở Việt Nam cho các nữ sinh
trên đồi Lâm Viên Đà Lạt vào năm 1935.
Thuở ban
đầu, trường có tên là Notre Dame du Langbian, gọi theo cách thuần Việt là
trường Đức Bà Lâm Viên. Cùng với trường Notre-Dame du Rosaire tại Hà Nội (1937)
và trường Regina Mundi tại Saigon (1950), thì Notre Dame du Langbian đã đóng
góp công lao trong việc giáo dục tri thức.
Tuy
nhiên, vào thời điểm mới thành lập, trường chỉ phục vụ là nữ sinh có xuất thân
từ các gia đình người Pháp, người Việt, người Campuchia và Lào. Mô hình phát
triển của trường được nâng lên dần từ vườn trẻ, trường tiểu học rồi chuyển hóa
thành nữ sinh trung học. Tên gọi chính thức của trường là Couvent des Oiseaux.
Đây cũng là một ngôi trường nổi tiếng chu đáo và nghiêm khắc. Ngày nay, ngôi
trường trở thành Trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú Lâm Đồng.
Trường
Thiên Phước (Sài Gòn)
Vào năm
1877, để đáp lại lời mời của Đức Cha Colombert, Giám Mục Địa Phận Đàng Trong,
Mẹ Benjamin cho lập một nhà dục anh tại Tân Định và cơ sở này được gọi là
“Sainte Enfance de Tân-Định”.
Soeur
Ignace lúc bấy giờ phụ trách Công Đoàn tiên khởi tại Viễn Đông. Hằng năm bà và
các nữ tu đón nhận cả trăm em sơ sinh bị bỏ rơi để săn sóc và nuôi dưỡng chúng.
Nhưng có một số trẻ vì quá yếu, bệnh tật không cứu sống được.
Vào năm
1881, Cha Sở Eveillard mời các chị em Dòng Thánh Phao-Lô đến dạy giáo lý cho
các em trai và gái của giáo xứ. Ba mươi năm sau, dưới sự huớng dẫn của Soeur
Suzanne, nguời phụ trách Công Đoàn, các chị em đảm nhiệm luôn việc giáo dục các
thiếu nhi nam nữ tại cơ sở cạnh Công Đoàn.
Gia đình
trong họ đạo gởi con em đến cơ sở của các nữ tu để vừa học giáo lý vừa học văn
hóa theo chương trình của Bộ Giáo Dục. Các con em của họ học đạo chung với các
cô nhi, cũng có một số em của họ đạo xin vào nội trú hoặc bán trú tại trường.
Trong
khoảng năm 1918-1938, song song với sự phát triển của họ đạo, Công Đoàn có
những bước tiến đáng ghi nhớ trong thời kỳ Soeur Andréa Amé phụ trách. Lần lượt
các lớp Sơ Cấp được mở ra, học sinh đến mỗi ngày một đông…
Vào năm
1941, Soeur Marie Rose lúc bấy giờ đang dạy ở Trường Jeanne d’Arc, Ngã Sáu Chợ
Lớn, được mời đến phụ trách Công Đoàn Tân Định thế cho Soeur Amé.
Vào
khoảng 1946-1948, lúc tình hình Đệ Nhị Thế Chiến lắng dịu, các lớp Nhì và Nhất
đuợc mở thêm để bổ túc chương trình tiểu học. Soeur Marie Rose cũng dần dần cho
mở thêm các lớp dạy theo chương trình Pháp. Được một năm thì Soeur phải về Pháp
chữa mắt và không trở lại. Soeur Alice de Jésus phụ trách tiếp Công Đoàn.
Năm 1950,
Soeur Alice de Jésus đã xây cất thêm các lớp học bên cánh phải của cơ sở, lên
lầu viện cô nhi, mở ký túc xá cho các nữ sinh ở tỉnh lên học. Lúc bấy giờ nhà
trường Sainte Enfance đã có đủ các lớp mẫu giáo, các lớp tiểu học Việt-Pháp dọn
thi Certificat d’Études Primaries Franco-Indigènes (CEPFI) và mở năm đầu để dọn
thi bằng trung-học Pháp BEPC.
Khoảng
giữa thập niên 1950, trường Sainte Enfance có hai chương trình trung học Việt
và Pháp.
Vào tháng
8 năm 1957, Công Đoàn Tân Định đón tiếp Soeur Pétronille de Marie, nữ tu sĩ
Việt Nam đầu tiên đến phụ trách.
Ngày 6
tháng Giêng năm 1958, trường Sainte Enfance de Tân-Định được giấy của chính
quyền qua Sở Giáo Dục cho phép đổi tên là “Trường Thiên Phước” và màu hồng nhạt
được chọn cho đồng phục của trường. Trước 1975, ở đây có khoảng 43 nữ tu nhưng
vào khoảng thời gian 2001, chỉ còn lại 12 nữ tu. Đứng đầu nhóm nữ tu lúc bấy
giờ là Soeur Marie-Patrice Trương Thị Nhung.
Trường Notre Dame Des Missions (Sài Gòn)
Tên
trường được chọn là Notre Dame Des Missions đơn giản là vì trường của dòng
Notre Dame Des Missions. Trường ở Thủ Đức, dạy theo chương trình Pháp và đến
năm 1970 thì có thêm chương trình Việt song song cho trung học đệ nhất cấp.
Khu đất
của trường được mua từ năm 1959 từ nhiều chủ khác nhau, và khởi công xây dựng
năm 1960. Dãy nhà đầu tiên làm trường tiểu học, nhà nội trú và dãy nhà dành cho
các Soeurs. Đến năm 1969 thì mới xây thêm dãy nhà danh cho trung học đệ nhất và
đệ nhị cấp.
Đến năm
1975, khu nhà trường tiểu học và nhà nội trú cùng dãy nhà trường trung học bị
chính quyền mới sử dụng làm cơ quan cho đến nay. Vì không sử dụng đúng mục đích
nên các Soeurs đã làm đơn đòi lại cơ sở từ năm 2004.
Trường Nữ
Trung Học Hồng Đức (Đà Nẵng)
Trường
được lập ra cuối năm 1967, sau khi niên khóa 67-68 đã bắt đầu. Địa điểm được
chọn nằm trên đường Thống Nhất, cạnh trường trung học Phan Châu Trinh và Nam
Tiểu Học, thành phố Đà Nẵng. Ngôi trường được xây trên một nghĩa trang cũ của
người Pháp, có người mê tín cho là không tốt nên yểu mệnh.
Niên khóa
đầu tiên, trường có thi tuyển để nhận thêm nữ sinh vào, bên cạnh những nữ sinh
được chuyển qua từ trường Phan Châu Trinh và gồm có có Đệ Thất đến Đệ Tứ. Liên
lớp đàn chị ra trường năm 1971, niên khóa 70-71.
Trường
mang tên Nữ Trung Học Hồng Đức từ niên khóa 73-74. Mùa xuân Ất mão, trường lần
đầu tiên tổ chức hội chợ rất quy mô. Đặt ngày truyền thống 30 tháng 1 Âm lịch
(húy nhật của vua Lê Thánh Tôn, bút hiệu Hồng Đức) và lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng.
Nhưng
tiếp theo đó là cuộc di tản của đồng bào từ Quãng Trị, Thừa Thiên về. Nhà
trường biến thành trại tị nạn. Kế đến biến cố 29 tháng 3 năm 1975. Niên Khóa
74-75 kéo dài đến hết niên khóa, sau đó trường biến thành Đại học sư Phạm. Học
sinh còn theo học của Nữ Trung Học Hồng Đức phân tán đi khắp nơi.
Trường nữ
trung học Qui Nhơn (Ngô Chi Lan)
Cơ sở này
nguyên là Trung Học Tư Thục Tân Bình, mở dạy các lớp trung học đệ nhất cấp nằm
trên đường Nguyễn Huệ, nhưng quay mặt về hướng Bắc, phía Nhà Thờ Chánh Tòa (còn
gọi là Nhà Thờ Nhọn), và cổng trường thông ra đường Hai Bà Trưng. Sau năm 1963,
cơ sở này được sung công và thuộc tài sản của tỉnh Bình Định, rồi chuyển cho Bộ
Giáo Dục để mở một trường trung học công lập.
Từ giữa
năm 1964, trường này trở thành công lập, cổng quay lại về hướng Nam (phía bở
biển) để thông ra đường Nguyễn Huệ và đổi tên là trường Nữ Trung Học Quy Nhơn.
Trường
được hợp thức hóa bằng nghị định số 2214/GD/PC/NĐ, ký ngày 4 tháng 12 năm 1964
của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, và khai giảng niên khóa đầu tiên 1964-1965. Ban đầu,
trường chỉ có các lớp trung học đệ nhất cấp, rồi được phát triển thành đệ nhị
cấp. Niên khóa 1972-1973, trường sở phát triển tới 18 phòng học với sĩ số là
2559 người, trong đó có 1892 nữ sinh đệ nhất cấp và 667 nữ sinh đệ nhị cấp.
Nữ Trung
Học Qui Nhơn là trường công lập đệ nhị cấp có lớp 12, và trải qua 3 đời hiệu
trưởng: Cô Trần Thị Gia (1964-1968), cô Vương Thúy Nga (1968-1970) và cô Lê Thị
Cúc (1970-1975).
Một sự
kiện quan trọng, niên khóa 1972-1973, trường Nữ Trung Học Qui Nhơn được Bộ Giáo
Dục cho đổi tên thành trường Nữ Trung Học Ngô Chi Lan, là tên của một nữ danh
sĩ thời Hậu Lê. Bà Ngô Chi Lan nổi tiếng về nhan sắc và đức hạnh, giỏi thi ca,
thông nhạc lý, viết chữ đẹp. Chính vua Lê Thánh Tông đã ban khen, phong danh
hiệu Kim Hoa Nữ Học Sĩ, cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn của triều đình,
được giao việc dạy lễ nghi và văn chương cho các cung nhân.
Trường Nữ
Trung Học Quảng Ngãi
Trường Nữ
Trung học Quảng Ngãi là trường nữ công lập lớn nhất ở tỉnh Quảng Ngãi trước năm
1975. So với bốn trường tư thục khác thời ấy là Kim Thông, Bồ Đề, Hùng Vương,
Chấn Hưng, tiêu chí tuyển chọn nữ sinh của trường rất khắt khe.
Ngôi
trường không chỉ nổi tiếng bởi có nhiều nữ tú, xinh đẹp mà còn đào tạo cả đức
tài. Học sinh ngoài học văn hóa ra còn được thầy cô dạy cho đức tính công dung
ngôn hạnh, dạy nấu ăn, cầm, kỳ, thi họa và cả cách đi đi đứng, ăn nói…
Theo cô
Nguyễn Thị Loan – Hiệu trưởng nhà trường từ năm 1971 đến 1975 thì Trường Nữ
Trung học Quảng Ngãi được hình thành từ việc tách số nữ sinh từ lớp lớp 6 đến
lớp 9 của Trường Trung học Trần Quốc Tuấn. Khi chưa có cơ sở chính thức, trường
phải học nhờ khắp nơi. Đến tháng 6.1965, trường được khánh thành và duy trì
hoạt động cho đến năm 1975.
Thời điểm
ngôi trường được xây dựng hoàn thành, cũng là lúc cô Loan được bổ nhiệm về công
tác tại trường. Cô Loan nhớ lại, lúc đó trường có 13 lớp từ lớp 6 đến lớp 10.
Cho đến niên khóa 1974 -1975, trường có 41 lớp với gần 2.000 học sinh từ lớp 6
đến lớp 12 nhưng chỉ có 15 phòng nên việc học cũng gặp nhiều khó khăn.
Trường có
quy chế khá nghiêm ngặt, luôn đặt vấn đề kỷ luật lên hàng đầu. Các em đi học
phải mặc đồng phục áo dài, quần dài trắng, bất kể trời nắng hay mưa. Học sinh
nào đi trễ năm phút bị ở ngoài cổng và xem như vắng học không phép.
“Học sinh ngày ấy rất ngây thơ, giàu tình cảm và hiếu học. Phần lớn các em được tuyển chọn từ các vùng quê trong tỉnh về học nên rất biết giúp đỡ lẫn nhau. Ngoài vấn đề kỷ luật, thành tích học tập, một lĩnh vực khiến chúng tôi vô cùng tự hào khi nhắc đến bề dày thành tích của Trường Nữ Trung học chính là phong trào văn nghệ. Đội văn nghệ của trường “ăn đứt” các trường khác, luôn dẫn đầu trong các cuộc thi giữa các trường trung học trong toàn tỉnh”, cô Hà Thị Tham – Giám thị nhà trường nói với vẻ đầy tự hào.
Nói về đội ngũ dạy học, trường hội tụ đội ngũ giáo
sư có năng lực, trình độ chuyên môn ở khắp nơi về công tác, chiếm đa số vẫn là
giáo sư đến từ xứ Huế mộng mơ. Giọng Huế ngọt ngào và ấm áp của các thầy, cô
khiến cho các bài giảng nhẹ nhàng hơn trong mỗi tiết học, dễ đi vào lòng học
sinh.
Attachments
area
Preview YouTube video Hình Ảnh Chân
Thật Nhất Về Miền Nam Việt Nam 1965-66
Preview YouTube video Cho Em Quên Tuổi
Ngọc - Hoàng Kim | ASIA 77
|
Nhận xét
Đăng nhận xét