Những Dòng Sông Lịch Sử
Những Dòng Sông Lịch Sử
Nước Việt ta được thiên nhiên ưu đãi nằm bên bờ đại dương nghe sóng vỗ rì rào mời gọi khi bình minh vừa ló dạng đoàn thuyền tấp nập ra khơi, chiều về mang đầy hải sản.
Những dòng sông uốn éo chằng
chít từ Bắc vào Nam, lợi thế cho thương nghiệp và quân sự. Những con thuyền
buôn bán ngược xuôi cung cấp sản phần đi khắp nơi cần thiết. Những trận thủy
chiến oanh liệt làm địch hoàng hồn hết vía trên những dòng .sông lịch sử còn in
dấu tới nay. Có những
dòng sông mang dấu ấn chia lìa xa cách :
Ôi những dòng sông oanh liệt một thời !
Ôi những dòng sông chia lìa xa cách !
Ôi những dòng sông nhớ mãi muôn đời !
Sông Bạch Hạc - Ngọc Hoa Công Chúa
(Trích 1 đoạn trong Lá thư )
‘Ngày này thì phu quân Sơn
Tinh Đại Vương đã hiển linh nơi núi Tản Viên, trở thành vị đệ nhất phúc thần của
Đại Việt và ngài vô cùng linh ứng.
Ngã ba Bạch Hạc nơi kinh thành
xưa thật là một vùng sông nước hữu tình, sầm uất trên bến dưới thuyền. Khi buổi
chiều tà, mặt trời đỏ ối lặn sau dãy Ba Vì, nơi có núi Tản Viên. Ngọc Hoa con
không ngừng cảm thán!
Trên sông ngày ấy, các thuyền
thả lưới đánh cá vọng vang trong những làn điệu dân ca tạo cho Bạch Hạc một vẻ
đẹp nên thơ.’
Mười tám đợi vua Hùng dựng Giang sơn,
Đất Việt trời Nam trải rông huy hoàng,
Là kho báu cháu con phải gìn giữ,
Nếu để một tấc đất vào tay giặc,
Là có tội phản bội với tổ tiên,
Phải ghi tâm khắc cốt không thể quên,
Bảo toàn Giang sơn, báo đền Quốc tổ.
Hát Giang - Nhị Trưng Vương
Những nữ tướng của hai bà là
chạy vào giữ huyện Cư phong thuộc quận Cửu chân. Sau Mã Viện đem quân vào đánh,
một số chạy thoát, số bị bắt.
Hai Bà Trưng làm vua được 3
năm, nhưng lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến
cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, Hai Bà lưu lại tiếng thơm muôn đời. Ngày nay có
nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà để ghi nhớ công ơn danh tiếng hai người nữ anh
hùng nước Việt nam.
Trả thù chồng,quyết bảo vệ Non Sông,
Gái má hồng phất cao cờ khởi nghĩa,
Sáu mươi lăm thành trì đã đoạt xong,
Mừng chiến thắng quân reo hò phấn khởi,
Sau yếu thế, trầm mình xuống Hát giang !
Bạch Đằng Giang - Ngô Quyền
Chắc hẳn đã là một người con của đất nước Việt Nam, không ai không biết đến dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Dòng sông đã đi vào những trang sử vàng của dân tộc với 3 chiến thắng oanh liệt. Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán năm 938, Hoàng đế Lê Đại Hành đập tan hàng chục vạn quân Tống xâm lược năm 981 và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng đội quân Nguyên Mông cũng trên dòng sông Bạch Đằng huyền thoại.
Nói về sông Bạch Đằng có những
câu thơ hào hùng như thế này:
Sóng hồng cuồn cuộn trôi về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh”
Ngày nay, nếu du khách có cơ hội
được trở về với Bạch Đằng giang, bạn sẽ thấy vẫn còn lại đó những ký ức một thời
đã được ghi vào sách vở cho đời hậu thế. Đó là những bãi cọc, bến đò, cây lim
Giếng Rừng,…
Đó chính là những minh chứng sống
động nhất cho đỉnh cao nghệ thuật quân sự của cha ông ta trong quá khứ. Đó cũng
chính là truyền thống quật cường của một thời oanh liệt của dân tộc Việt.
Hóa Giang - Hưng Đạo Vương
"Ra đi lần này nếu không
thắng giặc sẽ không bao giờ trở về bến sông này nữa". Đàn tế trời đất cùng
"ông voi" được lập ngay trên bến sông. Dân từ các làng kéo đến mang
theo hoa quả, hương thơm mỗi lúc một đông. Trần Hưng Đạo cùng đại quân và các
bô lão trong vùng thắp hương vĩnh biệt "ông voi" chiến hữu, để lại tại
chỗ di tích và địa danh "Bến Tượng". Và đúng như lời thề, quân ta đã
thắng trận quyết chiến Bạch Đằng giang lịch sử.
Như Nguyệt Giang - Lý Thường Kiệt
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Sông Núi Nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định rõ ở sách trời,
Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Trận Rạch Gầm - Ba anh em Tây Sơn
Tháng 2/1783, vua Nguyễn Nhạc
sai hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ mang quân vào Nam Bộ. Tướng Nguyễn Châu
Văn Tiếp cũng không thể ngăn cản. Lúc đó chúa Nguyễn Ánh phải chạy xuống Ba Giồng
(Định Tường), còn Châu Văn Tiếp phải men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua
Xiêm cầu viện.
Lúc đó Xiêm La đang lúc thịnh
vượng và nuôi tham vọng chiếm lấy Cao Miên và Gia Định để mở rộng bờ cõi.
Khi nghe Châu Văn Tiếp cầu cứu
thì vua Xiêm là Rama I liền đồng ý. Trận chiến đã diễn ra tại khúc sông Rạch Gầm - Xoài
Mút quân Tây Sơn đã toàn thắng liên quân Xiêm-Nguyễn Ánh cầu viện.
Sông Bến Hải - Chia Cắt Đôi Bờ
Triều Minh Mạng nhà Nguyễn, do
phải kiêng húy của vua nên cả tên làng và tên sông "Minh Lương" đều đổi
thành Hiền Lương. Sau đó khi có cây cầu bắc ngang sông không mấy xa ngã ba sông
Sa Lung và sông Bến Hải cũng mang tên cầu Hiền Lương.
Sông Bến Hải được biết đến nhiều
nhất vì vị trí chia cắt hai miền Nam do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát và Bắc do
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát trong cuộc Chiến tranh Việt Nam từ năm 1954
đến năm 1975. Về mặt địa lý thì sông nằm nhích xuống phía nam vĩ tuyến 17. Hiệp
định Genève quy định đây là giới tuyến phi quân sự tạm thời vào năm 1954.
Bên kia vùng đất địch
Ngọn cờ vút trên không !
Hiền Lương không dài lắm
Nhưng lại quá xa xôi
Dàn loa luôn réo gọi
Khua đục cả dòng sông
Giữa mênh mông trời đất
Cùng dòng máu Lạc Hồng
Lại trở thành thù hận
Chia cất bởi dòng sông !!!
SôngThạch Hãn - Trao Trả Tù
binh
Sách Đại Nam nhất thống chí
ghi: “Sông Thạch Hãn, từ nguồn Viên Kiều ở bảo Trấn Lao Bảo chảy về Đông,… qua
phía Bắc tỉnh thành Quảng Trị thì mang tên sông Thạch Hãn, đến ngã ba cổ Thành
chia làm hai nhánh. Một nhánh chảy lên Đông Bắc đến ngã ba Phú Ông, gặp sông
Vĩnh Phước ở phía Tây chảy vào, qua huyện Đăng Xương (tức huyện Triệu Phong
ngày nay), rồi ngã ba Đại Độ gặp sông Điếu Ngao (sông Điếu Ngao qua cửa Điếu
Ngao, đến xã Cam Lộ thì gọi là sông Cam Lộ), rồi qua ngã ba Giáo Liêm đổ ra Cửa
Việt. Một nhánh chảy xuống Đông Nam, chảy vào sông Vĩnh Định, gặp sông Nhùng
(Mai Đàn) từ phía Tây tới, rồi theo hướng Nam tới huyện lỵ Phong Điền thì gặp
sông Thác Ma sau đó chảy ra Phá Tam Giang”. Dài khoảng 170 dặm gồm cả đầu nguồn
ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Trị, sông Thạch Hãn có lượng phù sa không nhiều
nên nước thường trong xanh nhìn thấy đáy, trừ những ngày mưa lũ. Xuôi về Đông,
sông Thạch Hãn có 37 phụ lưu với diện tích lưu vực là 2.660 km2 vuông và lưu lượng
dòng chảy trung bình hàng năm khoảng 130 m3 mỗi giây. Với thượng lưu là sông
Đakrông bắt nguồn từ phía Đông của dãy Trường Sơn hùng vĩ, chảy quanh co giữa
núi rừng, qua nhiều thác ghềnh, hợp với sông Rào Quán, theo Quốc lộ 9 xuôi về
Ba Lòng rồi đổ ra Cửa Việt với vô số đá ngầm, đá dựng và nhiều loài thảo mộc
nên dòng nước Thạch Hãn trong vắt, thơm mát như đã đi vào ca dao “Không thơm
cũng thể hương đàn/ Không trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra”. Tên gọi Thạch Hãn
được lý giải do ở giữa nguồn có một mạch đá ngầm chắn ngang sông, mạch đá đổ mồ
hôi thành dòng chảy.
Sông Thạch Hãn cũng là một
trong những địa điểm trao đổi tù bình giữa 2 Miền Nam Bắc 1973. Trong phái đoàn
đại diện, chúng tôi hàng ngày qua bờ Bắc họp nhận danh sách và thể lệ trao trả
tù binh. Chúng tôi dùng xuồng gắn máy đưa tù binh BV sang bờ Bắc và nhận tù
binh VNCH về bờ Nam. Trong dịp này tôi rất vui đón nhận một người bạn thân cùng
đơn vị trở về cùng chụp ảnh kỷ niệm tôi còn giữ được sau nửa thế kỷ.
(*) Muốn hiểu rộng về việc
trao trả tù binh xin đọc‘Tù binh và Hòa bình-Phan Nhật Nam’
Sông Gianh lịch sử - Ranh giới Trịnh Nguyễn
Tại Quảng Bình, sông Gianh
không chỉ là danh lam thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ, đây còn là dòng sông linh
thiêng, gắn liền với nhiều câu chuyện lịch sử. Bởi vậy, người dân địa phương
còn hay gọi con sông với cái tên khác là Đại Linh Giang.
Sông Gianh thời Trịnh – Nguyễn
(1570 – 1786) được coi là ranh giới chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thời điểm
này, các cuộc chiến tranh kéo dài triền miên, lên tới gần nửa thế kỷ. Phía Bắc
sông Gianh là nơi án ngữ của chúa Trịnh – tức là khu vực Ba Đồn ngày nay. Ở
phía Nam, chúa Nguyễn cai trị, nay là huyện Thuận Hóa.
Dù Đàng Trong hay Đàng Ngoài đều
là lãnh thổ của nhà Lê, tuy nhiên chúa Trịnh và chúa Nguyễn được gọi là hai thế
lực phong kiến, tự coi như 2 nước riêng biệt. Quyền lực của vua Hậu Lê lúc này
không ngăn được tranh chấp cẳng thẳng của hai họ Trịnh-Nguyễn, khiến cho nước
ta bị chia cắt lên tới 150 năm. Giai thoại sông Gianh chia cắt 2 miền đến nay vẫn
còn in dấu với người Việt nói chung và riêng người dân Quảng Bình.
Vàm Cỏ Đông - Nguyễn Trung Trực
và quân Việt đánh chìm tàu Pháp.
Phong trào kháng chiến của
nhân dân sôi nổi.
Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt
cháy tàu Hy Vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861).
Khởi nghĩa Trương Định ở Gò
Công làm cho quân Pháp khốn đốn và gây cho chúng nhiều thiệt hại.
Trương Định có một câu nổi tiếng
trong thư trả lời Thủ tướng Pháp Bonard : “Triều đình Huế không công nhận
chúng tôi, nhưng chúng tôi
cứ chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.”
Trăm năm kìm kẹp bởi thằng Tây,
Dân Việt coi Tổ quốc nơi đây,
Là di sản cha ông lưu lại,
Một tấc đất không thể mất đi,
Quyết giữ toàn dù phải đổ máu,
Cho xứng danh con cháu Lạc Hồng.
Còn biết bao dòng sông thơ mộng trải dài từ Bắc đến Nam không ghi trong lịch sử đấu tranh, nhưng đã dệt nên nhiều vần thơ điệu nhạc, câu hò mang tình tự quê hương ôm ấp lòng người dân Việt như sông Hồng Hà - Hương giang hay Cửu Long giang…
Bài viết chỉ muốn giới thiệu vài nét tiêu biểu một số dòng sông đã ghi vào lịch sử và đôi dòng cảm tưởng, nên không đi sâu vào chi tiết. Mong thông cảm sự thiếu sót !
Ôi những dòng sông thân yêu Quê hương !Ôi những dòng sông oanh liệt một thời !
Ôi những dòng sông chia lìa xa cách !
Ôi những dòng sông nhớ mãi muôn đời !
Nhận xét
Đăng nhận xét