Từ Một Đêm Hạ Chí
Từ Một Đêm Hạ Chí
Từ ngày về hưu, sang sống với mấy cô con gái ở Cali, mỗi năm cứ đến đầu mùa hè, vợ chồng tôi đều trở về Na Uy thăm con cháu và mấy người bạn tù cùng vượt biển đến định cư ở xứ Bắc Âu này. Ba năm rồi, vì dịch Covid-19, nên mãi đến hè này, chúng tôi mới về lại được.
Tháng sáu, trời
Na Uy nắng đẹp. Ban ngày không nóng lắm, về đêm không khí càng se lạnh nhưng gần
như không bao giờ tối, nửa đêm vẫn còn le lói ánh mặt trời. Na Uy được gọi
là “Vùng Đất Mặt Trời Lúc Nửa Đêm” hay xứ Bạch Dạ (Đêm
Trắng). Đặc biệt vào tiết Hạ chí, ngày 23 tháng 6, có thể nói đó là
một ngày không có ban đêm, mặt trời lặn lúc 12 giờ đêm và mọc lên lại lúc 2 giờ
sáng, cũng là ngày dài nhất trong năm. Người Na Uy gọi buổi tối đặc biệt
này là Sankthans. Và theo tập tục, người ta thường kéo nhau ra ngoài trời đốt
lửa, ăn uống múa hát cho đến 3, 4 giờ sáng.
Về lại đây đã hơn
mười ngày rồi mà người tôi vẫn còn vật vờ, ngủ gà ngủ gật, vì qua một chuyến
bay khá dài, múi giờ lại khác nhau đến chín tiếng đồng hồ, nên cứ nằm dài trên
phòng khách xem các trận quần vợt và bóng tròn tranh giải Âu châu.
Bất ngờ tiếng
chuông cửa reo. Một ông bạn già láng giềng người bản xứ khá thân đến rủ tôi ra
ngoài vui chơi cùng với gia đình anh và một số người bạn láng giềng khác. Anh
ta vỗ vai tôi đùa:
– Ông bỏ Na Uy đi
lâu quá rồi, giờ thì phải ra trình diện bà con. Hôm nay là Sankthans của Na Uy
đấy. Nhiều người cứ tưởng ông quên luôn cái đất nước nhỏ bé đã từng cưu mang
gia đình ông rồi đấy!
Định tìm cách từ
chối, nhưng nghe anh ta nói đùa câu này, tôi thấy hơi chột dạ, hơn nữa cũng
muốn gặp lại mấy người láng giềng tốt bụng dễ thương đã từng sống gần họ hơn
mấy mươi năm, tôi vội khoác chiếc áo gió đi theo anh ta, mang theo một thùng
bia Heineken và dúi vào tay anh ta một chai rượu đỏ của cậu con trai vừa mới
biếu.
Trên một bãi cỏ khá
lớn nằm ngay phía sau khu chung cư, bên một triền đồi, đã có đông người, chia
thành nhiều nhóm già, trẻ với những lò nướng và các cây đàn guitar, bên ánh lửa
bập bùng
Mấy người láng
giềng gặp tôi ai cũng mừng, bắt tay hỏi han đủ chuyện. Từ chuyện ông Donald
Trump đến chuyện giá xăng dầu và cả chuyện súng ống giết nhiều đứa học trò bên
Mỹ. Có người còn nhắc cả chuyện người gốc Á bị kỳ thị và hỏi tôi có từng
bị dọa nạt, đánh lén bao giờ chưa. Điều này đã làm tôi có chút áy náy, bởi ở
Na Uy không hề có hiện tượng tồi tệ ấy bao giờ.
Uống xong lon bia,
người nóng lên, tôi đứng lên đi dạo một vòng sang các nhóm khác. Bất ngờ nghe
có tiếng đàn dạo bài Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn, điều khá lạ ở một nơi hầu hết
là người bản xứ, nên tôi thử tìm đến đó. Một chàng thanh niên Na Uy đang ngồi
đánh đàn bên cạnh một cô gái Á châu. Tôi đoán ngay cô ta là người Việt. Bước
lại gần hơn với chút tò mò, trong ánh lửa tôi nhận ra người quen, nhưng không
phải cô gái Việt nam mà là chàng thanh niên Na Uy, hơn nữa đó lại là một người
đã từng có với tôi nhiều kỷ niệm khá đặc biệt, lý thú. Chờ tiếng đàn kết thúc,
tôi vỗ tay đúng lúc anh ta cũng vừa nhận ra tôi. Anh đứng lên vồn vã bắt tay và
giới thiệu tôi với cô gái:
– Đây là ông thầy
của anh! Thầy dạy lịch sử chiến tranh Việt nam! Anh vừa nói vừa đùa.
Khi cô gái còn đang
ngạc nhiên, chưa kịp chào tôi, anh ta cười khoe với tôi:
– Còn đây là bà chủ
của tôi!
Sau đó anh đưa tay
chỉ hai đứa con nhỏ đang nắm tay nối vòng tròn trong một đám con nít, phía
trước, rồi hỏi:
– Tôi có nghe gia
đình ông đã dọn sang Mỹ và cứ tưởng là ông ở luôn bên ấy rồi chứ.
Tôi cười:
– Không, làm sao mà
chúng tôi có thể quên đất nước Na Uy này được, nơi mà chúng tôi đã xem như là
quê hương thứ hai của mình.
Anh ta siết tay tôi
thật chặt.
Từ khá lâu rồi tôi
mới có dịp gặp lại anh ta. Bởi chỉ sau ba năm đến định cư và ở trong khu chung
cư này, gia đình tôi đã dọn đi nơi khác khi mua được ngôi nhà lớn hơn, đầy đủ
chỗ ở và sinh hoạt cho sáu đứa con. Mãi khi tất cả các cháu đã đi học xa, chúng
tôi mới trở lại nơi này, mua một căn chung cư nhỏ gần bên nhà cũ, vì vẫn còn
lưu luyến với khá nhiều kỷ niệm của những ngày mới đến, và đặc biệt là một số
bạn bè cùng những người láng giềng thân quen từ dạo ấy.
Thời gian còn ở
trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân, tôi may mắn được học thêm một số giờ đặc biệt
về ngôn ngữ Na Uy để giúp làm phụ giảng và thông dịch cho các thầy cô giáo, nhờ
vậy mà khi mới đến Na Uy tôi đã có được một chút vốn liếng ngôn ngữ đặc biệt lạ
lẫm này, tuy chưa thông thạo lắm. Cuối tháng 5/1985, ngày đầu đến định cư tôi
được một nhóm phóng viên truyền hình của đài NRK đến tận nhà phỏng vấn. Biết
tôi từng là một người lính miền Nam nên họ hỏi khá nhiều về chiến tranh và
những năm tháng bị tù đày. Nghe họ ví von mình như là những người anh hùng Na Uy
chiến đấu giữ nước, nhưng bị Đức Quốc Xã bắt cầm tù trong các trại khổ sai thời
Đệ Nhị Thế Chiến mà tôi thấy ngượng ngùng, bởi vì dù gì mình cũng là người lính
bại trận, không giữ được lời thề và cả giang sơn để giờ phải lưu lạc đến đây
cùng với cả gia đình, và ít nhiều gì, với họ chúng tôi cũng là những cành tầm
gởi.
Nhưng không ngờ
chính chương trình phỏng vấn này đã đưa tôi đến một cái nghề bất đắc dĩ trong
lúc tôi đang tạm làm thông dịch cho Phòng Xã Hội và chờ theo học một ngành
chuyên môn để xin việc làm chính thức.
Tôi được bà Trưởng
phòng Tỵ Nạn Thị Xã giới thiệu một cặp vợ chồng người Na Uy. Ông chồng là thầy
giáo một trường trung học tại địa phương và bà vợ là y tá. Ông bà xem chương
trình phóng sự, theo dõi cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình, không hiểu từ
đâu, nhận ra ở tôi có những tố chất nào đó để có thể giám sát, kiềm hãm và làm
thay đổi cái tính khí bất thường như một tâm bệnh của đứa con trai gần 15 tuổi
của họ: hiếu động, nóng nảy, thích gây gỗ và bất cần, đôi lúc còn tự cào cấu vào
người, gây thương tích cho chính mình.
Nghe họ nói, tôi
phì cười. Tôi đâu phải là một nhà tâm lý học. Hơn nữa thuốc để chữa được bệnh
tâm lý chính là ngôn ngữ, mà tiếng Na Uy của tôi đang ở trong tình trạng ăn đong
thì làm nên trò trống gì đây. Tôi mỉm cười, lắc đầu trước khi trình bày với họ
những suy nghĩ ấy. Nhưng ông bà và cả bà Trưởng phòng Tỵ Nạn cứ khuyên khích,
bảo tôi nên làm thử và hứa hẹn một khoảng thù lao khá hậu hĩnh trong khi mỗi
tuần chỉ cần làm việc ba tiếng đồng hồ vào hai ngày cuối tuần. Họ tin là tôi sẽ
giúp được, vì cậu con trai của họ cũng tỏ ra thích thú và đang tìm hiểu về tôi
sau khi theo dõi cuộc phỏng vấn. Tôi ái ngại nhận lời, nhưng không dám hứa bất
cứ điều gì, và cũng sẽ không nhận tiền thù lao. Xem như là dịp để tôi trau dồi
thêm ngôn ngữ Na Uy.
Trước khi đến nhận
việc, tôi hỏi kỹ ông bà hơn về những điều đặc biệt mà cậu con trai thường làm
và sở thích của cậu ta. Ông bà cho biết cậu bé từng yêu một cô gái lớn hơn
nhiều tuổi, là một sĩ quan trong quân đội hoàng gia Na Uy, chị của một thằng bạn
học mà cậu ta bất ngờ găp được trong một đêm Hạ Chí (Sankthans). Tất nhiên cậu
ta không những bị cô gái từ chối mà còn thương hại, dạy dỗ vài bài học, vì đây
chỉ là tình yêu mê muội theo kiểu“Aimez-vous Brahms”. Từ đó cậu ta thất tình
bất mãn, rồi đổi hẳn tính nết: xa lánh bạn bè, ngoài giờ học chỉ đóng cửa ở
trong phòng, thích làm anh hùng, mê xem phim chiến tranh, thích mặc quân phục,
mang kiếm, huy chương và chơi các loại súng giả, bằng nhựa. Các loại đồ chơi
này bị cấm tại Na Uy, nhưng cậu ta tìm mua khi có dịp đi du lịch ở các nước Âu
châu khác.
Ngày đến nhận việc,
để làm quen, tôi mang đến biếu cậu ta một bộ quân phục, giây nịt “TAB”và cái bi
đông quân đội, tôi mua được trong một tiệm bán đồ cũ. Có lẽ đã được bố mẹ giới
thiệu trước, nên khi thấy tôi cậu ta đứng nghiêm đưa tay lên chào theo kiểu nhà
binh. Điều đầu tiên tôi khá ngạc nhiên vì với tuổi gần 15, nhưng cậu ta trông
cao lớn như một thanh niên đã trưởng thành. Tôi thoáng thăm dò trước khi đưa
tay lên chào lại và bắt tay cậu ta.
Ngược với ước đoán
của tôi, cậu chẳng tỏ ra thích thú gì với mấy món quà tôi tặng. Xem lướt qua
xong, cậu vất trên chiếc ghế bành, nhíu mày:
– Mấy thứ này đã
lỗi thời, của mấy ông lính già còn sót lại từ thời đệ nhị thế chiến!
Tôi cười:
– Trong quân đội,
những người lính già, càng thâm niên càng được kính trọng, chứ nhiều chàng lính
sữa thích ra vẻ oai phong nhưng ra chiến trường, nghe tiếng đạn bom thì nhát
như thỏ đế!
Nói xong, tôi chờ
đợi và đề phòng một phản ứng, nhưng bất ngờ cậu cúi xuống, hỏi:
– Nghe ông ở trong
quân đội và đánh nhau tới mười năm, bị thương mấy lần rồi?
– Khoảng ba bốn
lần, nhưng chỉ hai lần còn mang thương tích.Tôi vừa trả lời vừa vạch áo và ống
quần chỉ cho cậu ta xem vết sẹo còn trên bụng và dưới ống chân.
Cậu ta chăm chú
nhìn, đưa tay sờ trên từng vết sẹo, rồi đột ngột hỏi:
– Ngày đó chắc ông
đánh giặc chì lắm, là một hero?
Tôi phì cười, lắc
đầu, cố gắng tìm những từ ngữ đã học được và nói thật chậm để cậu ta có thể
hiểu được:
– Không, tôi chỉ là
một sĩ quan bộ binh bình thường. Những đồng đội đánh giặc giỏi của tôi thường
là những hạ sĩ quan hoặc khinh binh, và đa phần họ đã tử trận hết rồi. Anh hùng
thực sự là những người nằm xuống ở chiến trường. Còn sống như tôi thường không
thể là anh hùng, có khi còn hèn nữa, nhất là khi bị địch cầm tù!
– Đơn vị ông chắc
luôn chiến thắng và tạo nhiều chiến công?
– Đúng là chúng tôi
đã chiến thắng hầu hết trên chiến trường, kể cả những trận chiến ác liệt nhất,
nhưng rồi phải thua trận cuối cùng, khi chúng tôi không còn đủ đạn dược và điều
kiện để phản công và lực lượng địch lúc ấy gấp chúng tôi từ 5 đến 10 có khi 20
lần. Vì vậy tôi mới có mặt ở đây.
– Nhưng đọc trên
báo chí, thấy hầu hết những tướng lãnh của ông đã bỏ chạy sang Mỹ trước ngày
mất Sài gòn?
– Đúng, có một số
đã làm như vây trong hoàn cảnh tuyệt vọng, nhưng cũng có nhiều tướng lãnh đã
chiến đấu tới giờ phút cuối cùng để rồi 5 vị tuẫn tiết cùng với nhiều sĩ quan
và binh sĩ khác, và hơn 30 tướng lãnh khác đã bị CS cầm tù cùng với chúng tôi,
hơn 15, 18 năm. Cậu có biết điều này?
Có lẽ từng xem một
vài phim chiến tranh Việt nam do Mỹ hay các nước Âu châu thân Cộng thực hiện,
hoặc nghe ông thầy dạy sử nào đó lếu láo trong lớp, cậu ta tỏ ra hiểu biết:
– Tại các ông theo
Mỹ, mà người dân Mỹ đâu có ủng hộ cuộc chiến tranh ở đó, vì đó là một cuộc xâm
lăng, phi nghĩa. Các ông thua là phải.
Tôi cười:
– Cậu cũng chịu khó
theo dõi chiến tranh trên quê hương tôi đấy chứ. Thôi thì cứ tạm cho là như vậy
đi. Chuyện này phức tạp lắm, hơn nữa tôi cũng chưa đủ ngôn ngữ để giải thích
cho cậu bây giờ. Từ từ rồi chúng ta bàn luận tiếp. Tôi chỉ tạm xác nhận trước
một điều, trong suốt cuộc chiến ấy, chúng tôi vẫn xem Mỹ là một đồng minh chiến
đấu cho Tự Do, giúp chúng tôi bảo vệ miền Nam, mặc dù không ưa cái cách đồng
minh kẻ cả của họ. Riêng quân đội miền Nam chúng tôi chưa bao giờ đánh ra miền
Bắc, chưa hề gây thương tích hay chết chóc cho bất cứ một người dân miền Bắc
nào, ngược lại chúng tôi chỉ chống đỡ các lực lượng của CS Bắc Việt xâm nhập,
tấn công miền Nam dưới sự hỗ trợ đắc lực của Nga, Tàu và khối CS, giết hại hàng
vạn người dân và phá hủy biết bao nhiêu công trình xây dựng, kinh tế của chúng
tôi. Như vậy, kẻ xâm lăng chắc chắn không phải chúng tôi!
Cậu ta gật gù, im
lặng.
Đúng là cậu bé mê
chuyện chiến tranh và thích làm người hùng, nhưng may mắn là không tôn thờ,
sùng bái Hitler như một số thiếu niên Bắc Âu thời ấy. Những ngày làm việc của
tôi sau đó cũng chỉ kể lại các trận đánh và những năm tháng tù ngục. Tôi đưa
cho cậu ta xem hình ảnh dã man trong Cải Cách Ruộng Đất, Tết Mậu Thân tại Huế,
với các hố chôn người và đặc biệt là hai vợ chồng bác sĩ người Đức bị CS giết
chết, Tôi cũng cho anh ta xem hình ảnh Đại Lộ Kinh Hoàng và chiến trường An
Lộc, Quảng Trị để cậu ta thấy cái khủng khiếp của chiến tranh và tội ác của
những người cộng sản. Tôi cũng kể chuyện của chính tôi đã từng đối xử nhân đạo
với những tù binh cộng sản bị đơn vị tôi bắt ở An Khê, Kontum như thế nào, khi
cậu ta hỏi tôi về nhà tù Côn Đảo mà cậu đã đọc trên các báo thân cộng tại Thụy
Điển tuyên truyền.
Có lần cậu ta thắc
mắc, tại sao cộng sản miền Bắc Việt Nam gây chiến tranh và chết chóc như thế mà
lại được ông Thủ tướng Olaf Palme của Thụy Điển hết lòng ủng hộ, ông từng tuyên
bố, nếu bất cứ người lính Mỹ nào phản đối chiến tranh Việt Nam, đào ngũ khỏi
quân đội, ông sẵn sàng nhận và trợ cấp cho sang sống ở Thụy Điển. Tôi cười, bảo
là cộng sản rất giỏi tuyên truyền, nên đâu chỉ có ông Palme, mà còn nhiều người
Âu châu khác, trong đó có Na Uy, tin và ủng hộ. Thậm chí, ngay cả một số trí
thức và thầy tu, linh mục ở miền Nam chúng tôi, cũng bị lừa gạt, say mê đi theo
họ, để rồi sau này hầu hết đã hối hận, nhiều người quay lại chống chính quyền
CS hoặc bỏ trốn ra khỏi nước.
Tôi cố giải thích:
– Cậu thấy có nước
cộng sản nào mà người dân thực sự có tự do hạnh phúc không, có người dân Tây
Đức nào trốn sang Đông Đức mà ngược lại đã có hàng triệu người Đông Đức đã tìm
đủ cách để vượt thoát sang Tây Đức bất chấp cả cái chết và sự tra tấn tù đầy
nếu chẳng may bị bắt?
Để câu ta trầm ngâm
vài giây, tôi nói tiếp:
– Tôi đoan chắc với
cậu, là chỉ trong một thời gian không lâu nữa là bức tường Bá Linh bị chính
người dân Đông Đức giật sập đề chỉ có duy nhất một nước Đức không Cộng Sản.
Cậu ta vẫn không
ngước lên, hỏi:
– Thế thì còn Liên
Xô?
– Liên Bang Xô
Viết, cái thành trì của chủ nghĩa Cộng sản này cũng đang có những dấu hiệu sụp
đổ, chắc theo dõi tin tức cậu cũng biết.
Cậu ta nhếch môi
cười rồi hỏi tôi có muốn dùng một ly cà phê. Tôi gật đầu cám ơn. Khi mang ly cà
phê và một đĩa bánh táo đến để trước mặt tôi, cậu vừa mời vừa hỏi bất chợt:
-Hơn mười năm tác chiến, chắc ông đã giết rất nhiều địch quân?
Đắn đo một vài
giây, tôi ôn tồn:
-Chính tay tôi thì không, nhưng đơn vị do tôi chỉ huy thì tất nhiên là có, còn
nhiều bao nhiêu thì không ai biết được. Nhưng điều này không hề làm cho tôi
hãnh diện hay sung sướng gì đâu, mà trái lại, nhiều lúc còn là nỗi ám ảnh và
đau xót, bởi vì họ cũng là những con người, hơn nữa lại là người cùng dòng
giống với chúng tôi. Cái chết của họ cũng đau đớn như những cái chết của đồng
đội dưới quyền tôi. Nhưng cậu cũng hiểu rằng, điều đau lòng đó là do chiến
tranh mà chúng tôi chỉ là những người muốn tự vệ, miền Nam chúng tôi chưa hề
gây chiến.
Thấy cậu ta tỏ vẻ
ngạc nhiên với một chút xúc động, tôi xuống giọng:
-Vì vậy, là một người từng trải qua chiến tranh, một cuộc chiến khốc liệt và
đau xót nhất, tôi thành thật khuyên cậu đừng bao giờ mơ tưởng trở thành một
người lính chỉ để đi chém giết nhau. Cậu rất may mắn được lớn lên trong một đất
nước thanh bình như Na Uy để những thế hệ thanh niên như cậu không phải bị vướng
vào nỗi ám ảnh như tôi. Theo tôi, cái chiến thắng vĩ đại đáng hãnh diện nhất
của một quốc gia chính là không cần phải chiến thắng, không cần phải chém giết
ai cả. Mấy vết thương mà cậu đã nhìn thấy trên người tôi đã thành sẹo tự lâu
rồi nên không còn đau đớn gì, nhưng riêng nỗi ám ảnh xót xa ấy vẫn cứ còn âm ỉ
mãi trong lòng tôi, và buồn thay đó là điều duy nhất còn lại sau hơn mười năm
tôi đi làm lính chiến.
Cậu ta trầm ngâm
giây lát rồi đứng lên im lặng nắm tay tôi.
Không biết cậu ta
có thay đổi được điều gì không, nhưng sau đó cậu trở thành bạn của mấy đứa con
tôi, từ khi ba cháu lớn vào học chung trường với cậu và ông bố lại là thầy dạy
môn quốc văn Na Uy và tiếng Tây Ban Nha. Về sau này, khi chúng tôi dọn về nhà
mới gần bờ sông Nitelva, có vài lần cậu ta xuống thăm, mang theo chiếc thuyền
bằng cao su (loại bơm hơi), rủ mấy đứa con tôi cùng đi dạo, câu cá dọc trên
sông.
Lần cuối cùng đến
gặp tôi, khi nghe tôi nói ba cô con gái lớn đã sang Mỹ và Anh học, cậu ta khá
bất ngờ, đứng thẫn thờ một lúc rồi chào tôi, cáo từ. Sau này, nghe các con nói
lại, dường như cậu ta “phải lòng” cô con gái kế của tôi, nhưng cháu không để ý.
Từ đó, tôi không
còn gặp cậu ta. Cho đến một ngày cuối tháng 8 năm 1991, cậu bất ngờ đến tìm
tôi, mang biếu chúng tôi một thùng dâu tây, bảo là cách nay mấy hôm, khi theo
dõi việc Liên Bang Xô Viết tan rã, cậu ta bỗng nhớ tới tôi, nên hôm nay đến gặp
để nhắc là lời ước đoán ngày xưa của tôi đã đúng. Anh ta gật gù:
– Ông đúng là một
người lính già và nhiều kinh nghiệm.
Tôi cười:
– Nhưng lại là một
người lính bại trận. Còn chuyện Liên Xô tan rã thì cả thế giới này ai cũng đoán
trước được, chứ đâu phải riêng tôi!
Cậu ta lắc đầu
cười, bảo sẽ nghiên cứu thêm về cuộc chiến Việt nam, và nhất định sẽ sang Việt
Nam tìm hiểu về đất nước này cùng với hậu quả cuộc chiến mà tôi từng kể cho cậu
ta nghe.
Cậu cũng cho biết
là hiện đang theo học về ngành dầu hỏa tại đại học Stavanger, một tỉnh cực nam
Na Uy. Cha mẹ thì đã ly dị, ông cha trở về quê cũ ở cố đô Bergen và đã có người
tình mới, bà mẹ cùng cô em gái vẫn còn ở chỗ cũ, thỉnh thoảng anh có về thăm.
Đêm nay, hơn 30 năm
sau, bất ngờ gặp lại cậu, cũng trong một đêm Hạ chí Sankthans, khi cậu ta đã là
một trung niên, còn tôi thì mái đầu bạc trắng. Gặp lại cậu, tôi cũng vui và xúc
động. Đặc biệt thấy có chút gần gũi hơn khi biết cậu có vợ Việt Nam và dạo đàn
thành thạo bài Hạ Trắng, cho dù từ khá lâu rồi tôi không còn thiện cảm với
người sáng tác bài ca hay đó nữa.
Uống cạn thêm hai
lon bia để mừng cho cuộc trùng phùng và cho cả mối lương duyên khá đặc biệt của
vợ chồng cậu, tôi bắt tay từ giã sau khi nhận lời mời gặp lại hai ngày sau đó
tại nhà mẹ cậu, trước khi vợ chồng trở về lại nhà ở thành phố Stavanger.
Bà mẹ vẫn còn nhớ
tôi và đón tiếp khá niềm nở, hỏi thăm về đời sống của gia đình tôi và các con.
Cậu kể cho tôi nghe thời gian hơn ba năm theo Statoil (công ty dầu hỏa Na Uy)
sang làm việc ở Việt Nam, cậu có nhiều dịp đi đó đây để tìm hiều về cuộc chiến
Việt nam. Cậu may mắn làm quen với một cụ già, vốn là giáo sư đại học miền Nam,
giờ phải giúp đứa cháu nội trong một sạp bán sách cũ và các loại quà lưu niệm,
ở vỉa hè. Ông thông thạo cả Anh, Pháp ngữ, hiểu biết khá nhiều về tình hình
trên thế giới và đặc biệt về cuộc chiến Việt nam. Ông bảo cậu, nếu thấy bất cứ
người tàn tật nào lây lất bên đường, thì đó có thể là một thương binh của miền
Nam lúc trước, bị chế độ này kỳ thị, đuổi xô, ruồng rẫy. Và cũng nhờ ông mà cậu
ta biết chút ít tiếng Việt.
Nghe theo lời ông,
nên mỗi khi trông thấy một người tàn phế nào lê lết đi bán vé số hoặc ôm đàn ca
hát để xin giúp đỡ từ lòng yêu thương của khách qua đường, cậu ta đều tìm đến
hỏi thăm, biếu cho chút tiền, thực phẩm hay đồ dùng cần thiết. Một hôm, cậu gặp
một người đàn ông già, chỉ còn một cánh tay và một chân, chống nạng phụ giúp cô
con gái trong một quán cà phê nhỏ ở một vùng ngoại ô. Tuy già nhưng tướng tá
còn phương phi, nói tiếng Anh khá thạo. Cậu ta làm quen và biết ông cũng là một
sĩ quan miền Nam lúc trước, từng theo học một vài khóa tham mưu tại Hoa Kỳ,
tính tình thẳng thắn nhưng rất lịch sự. Sau này cậu ta trở thành con rể của
ông. Cô vợ mà tôi gặp trong buổi tối Hạ chí Sankthans hôm ấy, là con gái duy
nhất của ông, khả ái, thông minh và hiếu học. Được chồng bảo lãnh sang Na Uy một
thời gian, cô đã lấy bằng Bioingeniør (xét nghiệm máu) và hiện làm việc trong
một bệnh viện.
Qua nói chuyện, tôi
biết thân phụ cô nguyên là một vị thiếu tá thuộc Sư Đoàn 5 BB, bị thương trong
trận An Lộc. Mẹ đã mất khi cô vừa tròn hai tuổi. Sau khi sang định cư tại Na Uy,
cô đã làm hồ sơ bảo lãnh nhưng ông từ chối, chỉ muốn sống hết phần đời còn lại
ở quê nhà. Ông cũng đã mất hơn ba năm trước.
Khi chia tay, cậu
ta bắt tay rồi ôm lấy tôi:
– Tôi có được cô vợ
Việt Nam và hạnh phúc như hôm nay là nhờ ông, nhờ tôi bất ngờ thấy ông trong
cuộc phỏng vấn của đài NRK trong ngày ông và gia đình vừa mới đến định cư. Và
may mắn, cũng nhờ có đêm Sankthans hôm rồi mà gặp lại nhau.
Tôi cười, đùa:
– Và cũng tại một
đêm Sankthans nào đó ngày xưa, cô sĩ quan Hoàng Gia trong bộ quân phục oai
phong đã làm cậu say mê rồi thất tình, muốn đi lính để làm người hùng, lại là
nguyên do đưa đẩy chúng ta quen biết đến hôm nay.
Bắc Âu, đêm Hạ chí
Sankthans 23.6.2022
Phạm
Tín An Ninh
Nhận xét
Đăng nhận xét