Trịnh Công Sơn Và Những Hoạt Động Nằm Vùng (Phần 1)

Trịnh Công Sơn
Và Những Hoạt Động Nằm Vùng (Phần 1)

Liên Thành

Trong mấy tuần qua, tôi có đọc 2 bài viết của Trịnh Cung, tức Nguyễn Văn Liễu, và bài của anh Bằng Phong Đặng Văn Âu, viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Trịnh Cung viết: “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị”.

Bằng Phong Đặng Văn Âu viết:“Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn. Một thiên tài đồng lõa với tội ác”.

Hai tác giả với hai bài viết nói về Trịnh Công Sơn, nội dung khác nhau, nhưng hầu như cả hai đều đưa ra chỉ một vài dữ kiện, hoặc khách quan, hoặc chủ quan, qua tình bạn của họ đối với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Để rồi, Trịnh Cung và Bằng Phong Đặng Văn Âu đều không kết luận được, hoặc là không muốn kết luận, một điều quan trọng nhất: Trịnh Công Sơn bên nào? Bên này ? Bên kia? Hay nói trắng ra là: Trịnh công Sơn là ai? Quốc gia hay cộng sản?

Đã bao năm qua, kể từ sau 1975, và mãi đến những ngày gần đây, tôi vẫn giữ thái độ im lặng. Nhưng sau khi đọc xong bài của Trịnh Cung, cũng như của Bằng Phong Đặng văn Âu, tôi quyết định lên tiếng về những gì, mà vì lý do nghề nghiệp, tôi đã phải nắm rất tường tận về Trịnh Công Sơn. Lý do thì cũng đơn giản, quý vị có thể hiểu được khi đọc xong bài này.

Cuối cùng thì giờ đã điểm. Qua bao nhiêu ca ngợi, bao nhiêu tranh cãi, lý luận, có lẽ, đã đến lúc Trịnh Công Sơn nên trở lại với những gì của Trịnh Công Sơn. Đó là SỰ THẬT VỀ CON NGƯỜI Trịnh Công Sơn. Trong một bối cảnh mà đất nước đang nghiêng ngả tang thương bởi nhiều vấn nạn, cộng với một thảm họa tày trời: SỰ XÂM LĂNG CỦA TOÀN BỘ LỰC LƯỢNG CS QUỐC TẾ, ĐẶC BIỆT LÀ TRUNG CỘNG, QUA BÀN TAY CS HÀ NỘI, Trịnh Công Sơn đã cống hiến gì cho quốc gia?

Giữ nhiệm vụ trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên-Huế từ 1966 đến đầu 1975, tôi có bổn phận phải chịu trách nhiệm chính về vấn đề gìn giữ an ninh trật tự, bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào trong tỉnh. Và trên hết mọi chuyện, là đối phó với cục Tình Báo chiến lược Bắc Việt, lồng vào đó là một mạng lưới tinh vi và dày đặc CS nằm vùng tại Huế. Thật không sai khi nói Huế là một ổ nằm vùng. Do vậy, có lẽ chúng tôi là người “may mắn”(?!) PHẢI có bổn phận “BIẾT” rất “kỹ” về Trịnh Công Sơn và toàn bộ những phần tử hoạt động CS khác của Huế. Tôi biết Trinh Công Sơn và nhóm người nối giáo cho giặc này, dưới tất cả các khía cạnh khác nhau.Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ thói quen đến phẩm hạnh, đến tiểu sử, đến gia đình, thậm chí, nếu cần, thì cả gia phả vv, tôi đều có bổn phận phải biết. Và tôi sẽ lên tiếng một cách thẳng thắn, về những sự việc, thông tin, dữ kiện mà chúng tôi có được về đương sự trong bài viết này. Hy vọng, sẽ cung cấp cho lịch sử, và cho những ai quan tâm đến vấn đề Trịnh Công Sơn, cũng như các hoạt động chung của đương sự với các phần tử nằm vùng khác tại Huế, mà dù yêu, dù ghét, dù hận thù, dù ngưỡng mộ tôn sùng, dù căm phẫn.... những thông tin chính xác và cần thiết, để quý vị có thể tự mình thẩm định, lại một cách đúng đắn, về con người Trịnh Công Sơn. Bởi vì, mỗi con người chúng ta, dù thế nào đi nữa, không ai muốn bị BỊP cả!

Trịnh Công Sơn bên nào: Bên này ? hay bên kia ? Quốc Gia? Cộng Sản?

Trước khi xác nhận cũng như công bố nhiều chuyện liên quan đến Trịnh Công Sơn , xin được phác họa lại tình hình an ninh và nội chính của Thừa Thiên-Huế, sau ngày 1/11/ 1963:

Sau đảo chánh, ảnh hưởng và thế lực chính trị của Phật giáo Ấn Quang, và đặc biệt Trí Quang, Đôn Hậu đối với chính quyền trung ương cũng như địa phương, và trong hàng ngũ tín đồ Phật giáo tại miền trung, nhất là tại Huế, QUÁ MẠNH!

Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập II, đó là trung tâm quyền lực thật sự cho cả Miền Nam VN. Tại miền trung, chùa Từ Đàm là tàn cây cổ thụ đầy bóng mát, che chở cho mọi hoạt động của các cơ quan dân vận, tôn giáo vận, trí thức vận, tổ chức học sinh, sinh viên “Giải Phóng” thành phố thuộc Đại Học Huế và các trường Trung học. Tất cả đều nằm dưới sự điều động của tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế và Thành Ủy Việt cộng.

Hầu như không có một cơ quan an ninh nào của chính phủ VNCH dám sờ vào các ổ nằm vùng gần như công khai này. Họ chỉ lấy vải thưa để che mắt thánh, nhưng thật tình không ai dám đụng đến họ cả. Nếu đụng đến họ, sẽ bị lu loa là “tàn dư Mật Vụ Nhu Diệm”, là “đàn áp Phật Giáo”, là TÀN ĐỜI! Mọi tổ chức, mọi cơ sở nội thành của Việt Cộng được phát triển hết năng xuất. Tất cả là nhờ tài điều binh khiển tướng của Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan, thuộc Cục Tình báo Chiến lược Bắc Việt. Trung gian liên lạc là bí thư thân tín của Thích Trí Quang: Nguyễn Khắc Từ. Sau 1975, Nguyễn Khắc Từ lộ diện là viên đại tá Việt Cộng. Hổ trợ tận tình cho Hoàng Kim Loan là Trí Quang, Đôn Hậu.

Thích Đôn Hậu Thích Trí Quang

Có thể nói từ 1963, sau đảo chánh, đến 1966, là thời gian nổi loạn Miền Trung của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu. Ba năm oan nghiệt này là thời đại mạt vận của tất cả các cơ quan tình báo dân sự cũng như quân sự của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trí Quang, Đôn Hậu và hệ thống rất lớn các “thầy tranh đấu” của họ, đã xóa sổ các cơ quan tình báo xuất sắc của chính phủ, tại nhiều nơi. Đặc biệt thảm hại nhất là tại Thừa Thiên- Huế. Hủy diệt các cơ quan tình báo có nghĩa là mở đường cho CS tự do ra vào, có nghĩa là sinh mạng Miền Nam đang hấp hối!

Trước 1963, Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung là do ông Dương Văn Hiếu làm trưởng đoàn. Nhưng, người chỉ huy thật sự bên trong lại là ông Ngô Đình Cẩn. Ông là một người có năng khiếu thiên phú về tình báo, dù chưa hề qua một trường lớp đào tạo chính quy nào. Có thể nói đây là một năng khiếu bẩm sinh kỳ lạ của ông, đặc biệt là năng khiếu chống du kích chiến và chống dấy loạn trong thành phố. Cơ quan tình báo tinh nhuệ này đã phá vỡ và bắt giữ hầu như toàn bộ các cán bộ tình báo cao cấp của Bắc Việt gởi vào miền Nam. Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung (ĐCTĐNMT) đã bẽ gãy mọi mưu toan của Hà Nội về chính trị cũng như quân sự, nhất là mục đích phá rối chính trị để làm suy sụp Miền Nam. Xin dẫn chứng tài năng và công lao rất lớn của ông Ngô đình Cẩn, qua lời nói của đối thủ: đại tướng CS Văn Tiến Dũng: Dưới thời Diệm, ta đã gởi vào Miền Nam 60 ngàn cán bộ, cuối cùng chỉ còn 5 ngàn, như vậy là thiệt hại đến 90%”.

Sau khi ông anh là TT Diệm bị đảo chánh, bị đám tướng lãnh phản loạn bất chấp luật pháp, bất chấp kỷ cương phép nước, bất chấp đạo lý, bất chấp tình người, giết, thì ông em út cũng bị cùng chung số phận! Tòa án gì đây? Luật pháp gì đây? Luật của Trí Quang? Luật của Đôn Hậu? Luật của cái gọi là“ Phật Giáo đấu tranh”?? Tội gì thưa quý vị? Tội bắt nhiều CS! Ông Dương văn Hiếu, nhờ có ông Cẩn thế mạng rồi, nên quý thầy hơi khó làm áp lực giết thêm nữa. Sau đó, nhờ “đế quốc Mỹ xâm lược” can thiệp, nên chỉ bị tù.

Một cơ quan tình báo tinh nhuệ, đặc biệt, và bí mật khác, do ông Phan Quang Đông chỉ huy cũng bị xóa sổ. Cơ quan này hoàn toàn chỉ liên quan đến những điệp vụ quan trọng ngoài bắc mà thôi. Họ không hề dính dáng gì đến chuyện đàn áp Phật Giáo cả, cũng bị Thích Trí Quang vu vạ rồi giết. Theo lệnh Hà Nội, Trí Quang áp lực, yêu cầu chính phủ đương nhiệm, qua trung gian Nguyễn Chánh Thi, tử hình Phan Quang Đông, một viên chức chỉ huy tình báo tài ba xuất sắc, với tội “ Mật vụ Nhu Diệm”!

Cơ quan tình báo thứ 3 hoạt đông rất hữu hiệu tại Huế, là Ty Công An Thừa Thiên của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa . Số phận cơ quan này cũng bi thảm không kém. Ông Lê Văn Dư Trưởng ty bị bắt giữ.

Hầu hết nhân viên phụ trách tình báo của 3 cơ quan này, hoặc bị sa thãi, hoặc bị bắt, hoặc bị thuyên chuyển khỏi các chức vụ trọng yếu. Tất cả cũng với tội danh tương tự: “Mật vụ Nhu-Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy v.v…”

Không phải Ðức Quốc Xã; Không phải Khờ Me Ðỏ; Mà là tội ác cộng sản Việt Nam, Phật Giáo Ấn Quang tại Khe Ðá Mài 1968.

Sau khi loại trừ sạch các thành phần “Mật vụ Nhu Diệm ác ôn”, các thầy liền thay vào cái bình cũ là cơ quan tình báo của Việt Nam Cộng Hòa, loại rượu mới do quý thầy bào chế ra, đó là “rượu nằm vùng”!!

1. Nguyên Quận Trưởng Cảnh Sát Nguyễn Văn Cán, một cơ sở tình báo rất quan trọng của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan, được phong làm truởng ty CSQG Thị xã Huế. Ngoài ra, Nguyễn Văn Cán còn là cơ sở nuôi dưỡng tên Phan Nam, Thành ủy viên thành ủy Việt Cộng Huế, đặc trách an ninh của cơ quan thành ủy VC, trú ngụ thường xuyên trong nhà của Nguyễn văn Cán. Sau 1975 Phan Nam làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Huế.

2. Trần Văn Cư, đệ tử thân tín của Ông Đôn Hậu, được phong làm trưởng ty Công An Thừa Thiên. Trần văn Cư chính là người thẩm vấn thụ lý nội vụ ông Phan Quang Đông. Thừa lệnh CS Hà Nội, Đôn Hậu, và Trí Quang ngầm ra lệnh cho chính quyền, xử bắn Phan Quang Đông tại Sân Vận Đông Tự Do, thuộc quận III thị Xã Huế, với tội danh : ” Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo thủ tiêu quí thầy, v.v…”

Đau đớn và cười ra nước mắt, là từ 1966 đến 1968, hai ty Cảnh Sát lại giao cho hai tay nội tuyến Việt Cộng: Ty Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Quảng Trị thì Trưởng ty lại là Đại Úy Lê Cảnh Thâm, làm việc cho cơ quan Quân Báo của VC. Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế thì Trưởng ty là Đoàn Công Lập, nhân viên thuộc cấp của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan.

Khoảng thời gian dài này là thời hoàng kim tuyệt đỉnh của các hoạt động CS nằm vùng. Chỉ cần dán nhãn hiệu “ Mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy” cho kẻ thù, là mọi việc xong ngay! Cả Miền Nam hoang mang, lo sợ, điêu đứng, biết bao thân phận bị vùi dập, cũng vì cái khẩu hiệu này.

Sau khi 3 cơ quan tình báo trọng yếu và vô cùng hữu hiệu này bị “các thầy” xóa sổ, các tổ chức cơ sở Việt Cộng trong thành phố Huế sinh sôi nẩy nở, phát triển tự do như rạ, như nấm . Chính quyền tuy biết, nhưng không dám đụng đến, vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo. Sợ đến kinh hoàng mấy chữ “ Mật thám Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo”. Quý thầy đã thật sự thành công trong việc tự tôn, tự đồng hóa “CÁC THẦY LÀ PHẬT GIÁO”. Nói đến đây tôi không khỏi không bật cười, nhớ đến chuyện cũng tương tự như vậy. Đó là chuyện trên 30 năm nay, đảng CSHN cũng đã tự đồng hóa mình là tổ quốc! Và CS cũng đã thành công! Quý thầy cũng thành công!

Đại đa số các tổ chức CS như thế và hầu hết những kẻ tham gia trong các tổ chức đó, đều đã được Trí Quang, Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan bọc cho cái vỏ tôn giáo. Tỷ dụ như Liên Đoàn Học sinh, Sinh viên Phật tử, công chức Phật Tử, Quân nhân Phật tử, Cảnh sát Phật tử, Tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba v..v...

Thành phố mọc lên như rạ những địa điểm hội họp, tiếp xúc, của nhiều trí thức, giáo sư , sinh viên, học sinh, hoạt động cho các tổ chức trí thức vận, tôn giáo vận của Thành ủy Huế. Những địa điểm nầy trong danh từ chuyên môn chúng tối gọi là những “căn cứ lõm” của địch, tỷ như:

1- Quán Café “Bạn Tôi”

Ở đường Đào Duy Từ, tại vùng Đập Đá thuộc quận III thị xã Huế. Thành lập bởi Lê Văn Sâm, SV luật khoa, chủ quán. Có Ngô Kha, vợ chồng Giáo sư Đỗ Long Vân ở Pháp về, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Hữu Ngô, nhà văn Túy Hồng, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long.

Trần Quang Long (trái) và Lê Hiếu Đằng năm 1964

(Hình đã bị xóa: Trần Quang Long (ngồi, bên trái) tại bệnh viện, sau vụ biểu tình bị đàn áp tại Qui Nhơn 1966 chủ tịch sáng lập Hội Sinh viên sáng tác thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn)

Trịnh Công Sơn (trái), Bửu Ý,  Nguyễn Trọng Tạo và đồ tể Mậu Thân Hoàng Phủ Ngọc Tuờng

2- Lực lượng giáo chức tranh đấu tại Huế

Chủ tịch kiêm chủ bút diễn đàn báo Dân là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phó chủ tịch là Giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm.

Ngoài ra còn có tờ Sinh Viên Huế của tổng hội Sinh Viên Huế, và tờ Lập Trường của nhóm trí thức đại học Huế, do giáo sư Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm. Chủ trương: Chống lại cái gọi là “Chế độ Diệm mà không Diệm”.

Quý vị độc giả, ai là người uyên thâm, xin hãy diễn giải và dẫn chứng rành rẽ, cụ thể, chứng minh dùm tôi, cụm từ “ Diệm mà không Diệm” này! Tôi chịu thua. Những lộng ngôn này là do ai làm ra? Ai sáng tác? Ai nghe theo? Mục đích là gì? Phá nát tất cả các chính quyền Miền Nam? Bất kể là ai lãnh đạo?

Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị họ gián tiếp giết, phong cho danh hiệu mang đầy tính tội ác, rùng rợn, răn đe: “Mỹ Diệm”, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy”. Đất nước sau đó tang thuơng đổ vỡ, chính trị rối loạn, nhưng vẫn chưa vừa lòng. Thừa thắng xông tới, họ răn đe các chính quyền kế tiếp khác bằng khẩu hiệu mang tính bình mới rượu cũ: “ Diệm mà không Diệm”. Chỉ đơn giản vậy, nhưng buồn cười thay, một loạt các chính quyền sau đó đều xếp re, không dám hó hé với nhóm “ Phật Giáo Đấu Tranh” này.

3- Tuyệt Tình Cốc

Nằm tại hẻm Âm Hồn thuộc quận I thị xã Huế. Nguyên là ngôi nhà của cha mẹ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Sau khi hai ông bà dời nhà ra gần cửa Đông Ba, anh em Tường, Phan biến nơi nầy thành trung tâm hội họp hoạt động của đám sinh viên, trí thức cơ sở thành ủy VC Huế.

Tuyệt Tình Cốc là một ngôi nhà tranh, trong một khu vườn nhỏ có cây Ngọc Lan. Đến mùa hoa nở, hương thơm ngát.

Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Ngọc Phan đã đặt tên cho cây ngọc lan này là “Cây hoa tình”, và ngôi nhà kia là “Tuyệt Tình Cốc, vay mượn trong tác phẩm kiếm hiệp Thần Điêu Đại Hiệp của tác giả Kim Dung

Tuyệt Tình Cốc thường xuyên do anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì sau nầy còn có họa sĩ Đinh Cường.

Trịnh Công Sơn, nữ văn sĩ Túy Hồng, Ngô Kha, Trần vàng Sao, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Xuân Kiêm, chủ tịch tổng hội sinh viên Huế, cũng đã xuất hiện nhiều lần tại đây. Hầu hết đám này là cơ sở sinh viên và trí thức vận của thành ủy Huế.

Tuyệt Tình Cốc cũng là nơi xuất bản tờ báo Việt Nam Việt Nam của nhóm trên, trong khoảng thời gian phong trào tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, giai đoạn cao điểm vào đầu hè 1966.

4- Căn phòng của Lê Văn Hảo

Giáo Sư nhân chủng học, Đại Học Huế cũng là nơi mà Hoàng phủ Ngọc Tường và đám sinh viên hoạt động cho Thành ủy VC dùng làm nơi viết và xuất bản báo chí.

Vô số những trí thức, học sinh, sinh viên hoạt động cho VC tại thành phố Huế. Họ tham gia sách động, trong vai trò lực lượng quần chúng: Cách Mạng đấu tranh của biến cố 1963, rồi cuộc tranh đấu bạo động 1966. Hãy nhìn, để phải giật mình tự hỏi: “Huế không mất vào tay CS trước Mậu Thân 1968 thì quả thật là một phép lạ”. Hãy nhìn danh sách một ổ việt cộng nằm vùng dưới đây:

Nguyễn Thiết: Sinh viên Luật Khoa phụ trách Thanh niên Thành Ủy Huế, thoát ly lên mật khu 1965.

Trần Quang Long: Sinh Viên Việt Hán Đại Học sư phạm, thoát ly năm 1968.

Lê Minh Trường: Sinh Viên Mỹ Thuật: Vượt ngục lên mật khu, sau đó xâm nhập tái hoạt đông bị lực lượng CSĐB phục kích bắn chết tại làng Hải Cát Hạ, quận Nam Hòa.

Vĩnh Kha. SV Văn Khoa: Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên , Đoàn trưởng đoàn SV Phật Tử.

Hoàng Phủ Ngọc Tường: Giáo Sư.

Hoàng Phủ Ngọc Phan: SV Y Khoa.

Nguyễn Đính: SV Văn Khoa, bút hiệu Trần Vàng Sao.

Phạm thị xuân Quế: Bác sĩ. Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Thành Phố Huế.

Thái Thị Ngọc Dư: sau này đậu Tiến sĩ Địa lý Học tại Pháp.

Trần Anh Tuấn: Tiến Sĩ Luật Khoa tại Mỹ.

Hoàng Văn Giàu: Phụ khảo đại học Văn Khoa Huế. Đoàn Trưởng đoàn SV Phật Tử Huế. Hiện ở Úc Châu.

Thái Thị Kim Lan: Sinh viên Văn Khoa , sau du học đậu Tiến Sĩ triết học tại Đức.

Nguyễn Đắc Xuân: SV Việt Hán, đại học Sư Phạm.

Hùynh Sơn Trà: SV Y Khoa, thoát ly 1968.

Nguyễn Văn Sở: Đại học Sư Phạm Anh Văn. Thoát ly 1968.

- Lê Thanh Xuân: Thoát ly 1968.

Ngô Yên Thi: SV Văn Khoa. Thoát ly 1968.

Nguyễn Hữu Ngô: SV Mỹ thuật.

Trần Hoài: SV Việt Hán: Đại học Sư Phạm. Thoát ly 1972.

Nguyễn Đức Thuận: SV đại học Sư phạm Anh Văn. Thoát ly 1968.

Trần Bá Chữ: SV đại học Sư Phạm Toán. Thoát ly 1968.

Nguyễn Thị Đoan Trinh, SV Dược Khoa Đại Học Sài gòn, sát thủ Mậu Thân 1968. Y thị trực diện đeo băng đỏ, nổ súng, hạ sát rất nhiều người. Thoát ly ngay sau CS bại trận Mậu Thân.

Lê Văn Tài: SV Mỹ Thuật, thoát ly 1968. Hiện ở Úc Châu.

Nguyễn Văn Mễ: Học sinh lớp 12 Quốc Học. Thóat ly 1968.

Lê Phước Thúy: SV đại học Sư Phạm. Thoát ly 1968.

Lê Công Cơ: SV đại học khoa học. Thoát ly 1968.

Lê Khắc Cầm: SV, em giáo sư Lê Khắc Phò.

Lê Văn Hảo: Giáo sư nhân chủng học Đại Học Huế.

Bà Đào Thị Yến, tức Bà Tuần Chi, nguyên Hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh và cũng là tình nhân của Thích Đôn Hậu. Thoát ly ra bắc cùng với Thích Đôn Hậu, sau Mậu Thân, cùng với Giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Giáo sư Lê văn Hảo v…v…

- Bửu Chỉ: SV Mỹ thuật.

Phan Duy Nhân: SV.

Và còn rất nhiều nữa….

Những cơ sở này, hiệp lực cùng với Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Chánh Trực, bí thư thân tín của Thích Trí Quang là Đại Tá tình báo cộng sản Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan, Trung tá điệp viên cục tình báo chiến lược Hà Nội, như thế đủ để phá nát Huế chưa?

Thưa, Quá đủ! …

Vì thế, miền Trung, đặc biệt Huế, đang bị nhuộm đỏ cách mạng, vừa hồng vừa chuyên. Miền Trung đang sôi sục lửa đấu tranh căm thù giai cấp! Đang là địa ngục của một mạng lưới CS nằm vùng khổng lồ, bán mình cho quỷ.

Ngày 23-1-1965 Thích Trí Quang cho lệnh học sinh sinh viên, đồng bào biều tình kéo đến đốt tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại số 4 đường Đống Đa. Sau đó đoàn biểu tình kéo đến đốt phòng Thông Tin Văn Hóa Hoa Kỳ (USIS) tại số 8 đường Lý Thường Kiệt, thuộc quân III thị xã Huế.

Cung nghênh Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Liên

Ngày 27-2-1965 đám này họp báo ra mắt “Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc” và “Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết”.

Chủ tịch là Thượng Tọa Thích Quảng Liên. Các thành viên: Bác sĩ Thú y Phạm Văn Huyến, thân sinh bà Phạm Thị Thanh Vân, tức bà Ngô Bá Thành. Nhà báo Phi Bằng, tức Cao Minh Chiếm, Luật sư Trịnh Đình Thảo. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Bác sĩ Lê Khắc Quyến khoa trưởng Đại Học Y Khoa Huế cũng bí mật nằm trong tổ chức nầy.

Về Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, chủ tịch là luật sư Nguyễn Long. Các đoàn viên chủ chốt là kỹ sư Hồ Văn Bửu, kỹ sư Tô Văn Cang.

Hai tổ chức nầy đều đòi hỏi:

* Quân đội Hoa Kỳ phải triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam.
* Vấn đề thống nhất của Việt Nam phải để cho người Việt Nam tự quyết.


Ngày 1-3-1965, Thủ Tướng Chính Phủ VNCH, bác sĩ Phan Huy Quát, ra lệnh cách chức gần 50 công chức và khoảng 30 người bị bắt giữ. Trong đó có Cao Minh Chiếm, giáo sư Tôn thất Dương Kỵ và thú y sĩ Phạm Văn Huyến.

Ba nhân vật nầy được giải ra Huế. Tướng Nguyễn Chánh Thi muốn thả dù nhóm này qua bên kia vỹ tuyến 17. Thủ Tướng Phan Huy Quát phản đối vì sợ báo chí và dư luận quốc tế xuyên tạc.

Ngày 19-3-1965, tướng Nguyễn Chánh Thi chủ tọa một buổi lễ ngay tại bên này cầu Hiền Lương, sau bài diễn văn, Cao Minh Chiếm, Tôn Thất Dương Kỵ và bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến được dẫn từ phía bên nầy cầu, thuộc vùng chính phủ VNCH, sang đến giữa cầu, giao cho Cộng Sản Hà Nội. Cả ba lặng lẽ đi qua phía bên kia cầu phân chia biên giới Nam-Bắc.

Tình hình Huế mỗi ngày mỗi trầm trọng. Ngày 6-6-1966 lúc 12 giờ trưa, trên đài phát thanh tranh đấu tại Huế, Thích Trí Quang, tên cờ gian bạc lận, buôn thần bán thánh này, rút con bài cuối cùng: “Bàn thờ Phật”. Trí Quang chơi xã láng canh bạc cháy túi, không kể gì đạo đức tối thiểu: Đưa bàn thờ Phật xuống đường! Phật nào đồng ý cho hành động này?... Ngược lại, Phật đã độ trì người con trung nghĩa xứ Huế: Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan và lực luợng Đặc Nhiệm dẹp loạn miền Trung

Chỉ sau hai tuần lễ kể từ ngày 9-6-1966 toàn bộ lực lượng tranh đấu của Thích Trí Quang đã bị dẹp tan. Thích Trí Quang và đồng bọn, tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh QĐI. Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận Tư Lệnh Sư Đòan I. Tất cả bị Đại tá Nguyễn Ngọc Loan bắt giữ.

Tôi liên tục mở các cuộc hành quân cảnh sát, bắt giữ toàn bộ đám cơ sở việt cộng nằm vùng cài trong Phật giáo, trong các tổ chức giáo chức, học sinh , sinh viên thuộc lực lượng tranh đấu của Thích Trí Quang. Một số lớn bọn chúng bị bắt giữ ngay, nhưng cũng có một số ít đã được trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan gởi giao liên và đưa lên mật khu. Điển hình hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân.

Chuyện khám phá ra Trịnh Công Sơn hoạt động nằm vùng, là do chúng tôi theo dõi anh em họ Phan. Cuộc đào thoát của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã may mắn làm bộc lộ chân tướng của Trịnh Công Sơn.

Người đứng ra thi hành là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, và Trịnh Đình Thảo, lúc đó là Tổng Thư Ký Đại Học Y Khoa Huế. Tôn Thất Dương Tiềm và Lê Cảnh Đạm là cán bộ trí thức vận của cơ quan thanh ủy VC Huế.

Và tôi đã vô cùng bàng hoàng, buồn bả ngẩn người, khi thấy Trịnh Công Sơn dính trong vụ này.

Lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt đã bám sát theo dõi hai mục tiêu Tường và Phan từ lúc bọn này ẩn trốn tại nhà sách Khánh Quỳnh tại ngã tư Anh Danh, thuộc Quận I thành phố Huế. Tiệm sách nầy là của gia đình Tôn Thất Dương Kỵ một cán bộ cộng sản gộc tại Huế.

Sau đó, bọn chúng di chuyển qua trốn tại số 66 đường Phan Chu Trinh, quận III thị xã Huế. Đây là nhà an toàn của cơ quan Thành ủy VC Huế. Chủ nhân cũng là cơ sở nội thành, tên là Nguyễn Chính. Số 66 Phan Chu Trinh nằm ngay ngã tư Phan Chu Trinh-Nguyễn Trường Tộ, ngay đầu cầu Phủ Cam. Bên này cầu Phủ Cam là nhà tên Chính, và bên kia cầu Phủ Cam là nhà Trịnh Công Sơn, nằm trên đường Nguyễn Trường Tộ, đối diện với tòa Tổng Giám Mục Huế.

Đó là một dãy chung cư. Căn của Trịnh Công Sơn và gia đình trú ngụ là: 11/3 Đường Nguyễn Trường Tộ, quận III, thành phố Huế.

Tôi nhớ không lầm thì đó là ngày 11/6/1966. Trời nhá nhem tối, tôi chỉ huy điệp vụ, đứng hơi xa hiện trường. Hai anh em Hoàng phủ Ngọc Tường từ nhà Chính, bên này cầu Phủ Cam, đi rất nhanh sang nhà Trịnh Công Sơn, bên kia cầu Phủ Cam. Trịnh Công Sơn đã có kế hoạch chuẩn bị trước cho hai tên này ăn cơm tối tại nhà. Sau đó, một chiếc xe hơi màu trắng đến đón Tường và Phan đi ngay.

Tài xế là Lê Cảnh Đạm. Hộ tống là giáo sư Tôn thất Dương Tiềm. Họ lên chùa Thiên Mụ, và sau đó đi bộ vượt Long Hồ, Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Huơng đến mật khu sau núi Kim Phụng.

Chiếc xe hơi trắng đó là của bà Tuần Chi, tức Đào Thị Yến. Mậu Thân 1968, bà giữ chức vụ Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Huế. Vài ngày sau, đã cùng một phái đoàn đông đảo trí thức miền Nam và Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, mà theo sự theo dõi ghi nhận của CSQG Thừa Thiên-Huế, cũng là người tình của bà, thoát ly ra Bắc.

Đó là lần đầu tiên mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế phát hiện hành động tiếp tay cộng sản của Trịnh Công Sơn.

Tôi sẽ không như Trịnh Cung hoặc anh Đặng Văn Âu chỉ nói thoáng qua về Trịnh Công Sơn . Vì “ méo mó nghề nghiệp”, tôi sẽ đi từng chi tiết một. Từ đời tư, gia đình, tình ái, sức khỏe, cá tính, tham vọng, đến những công tác tình báo mà TRỊNH CÔNG SƠN cộng tác với chúng tôi, những công việc mà Trịnh Công Sơn cộng tác với Cộng Sản, những công việc mà Trịnh Công Sơn cộng tác với Tình báo Ngoại Quốc. Kết quả và ảnh hưởng của những hành động của đương sự, đã gây tác hại như thế nào cho Miền Nam VN.

Đương nhiên sẽ đụng chạm và gây sóng gió. Và sóng gió không chỉ giới hạn riêng nhân vật Trịnh Công Sơn. Nhưng chỉ là sóng gió cho những ai trót đem lòng ngưỡng mộ tôn thờ nhân vật này một cách nhẹ dạ mù quáng. Còn những ai có chút bình tâm suy xét, biết yêu lấy quê hương khốn khổ này, thì những thông tin mà tôi đưa ra, sẽ chỉ là những xác tín. Nó rành rành như 2+2 là 4.

Với tất cả lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với người dân Miền Nam VNCH và với lịch sử. Những gì tôi viết, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi sẵn sàng đối chất với bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào về vấn đề Trịnh Công Sơn. Và đặc biệt tôi càng rất muốn đối chất với những ai cho rằng những thông tin mà tôi đưa ra là sai trái về Trịnh Công Sơn và bất cứ nhân vật nào hoạt động CS có tên trong bài này.

Ngay sau đó, tôi cho lệnh mở hồ sơ TRỊNH CÔNG SƠN, điều tra lý lịch chi tiết, bám sát theo dõi đương sự. Công việc nầy được giao cho toán xâm nhập E-16, mà trưởng toán là anh Nguyễn Bá Sơn.

Một thời gian sau, nhiều phát hiện cho thấy, Trịnh Công Sơn từ lâu đã có quan hệ chặt chẽ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Duy Nhân, và đặt biệt với một cán bộ quan trọng của cơ quan Thành ủy VC. Cán bộ đó là Lê Khắc Cầm, em ruột của giáo sư Lê Khắc Phò. Y sống hợp pháp trong thành phố Huế, Trịnh Công Sơn rất thường xuyên liên lạc với y.

Ngoài ra, toán theo dõi cũng phát hiện được một số các cơ sở trong tổ chức trí vận thuộc tổ chức Học sinh-Sinh viên Giải Phóng thành phố Huế cũng có liên lạc chặt chẽ với Trịnh Công Sơn như:

Huỳnh Sơn Trà, SV Y Khoa. Đặng Văn Sở, Đại Học Sư Phạm. Lê Thanh Xuân SV Luật Khoa. Trần Hoài, Đại Học Sư Phạm Việt Hán. Giáo sư Ngô Kha, Đinh Cường, Trần quang Long, Trần Vàng Sao, Bửu Chỉ, và nhiều nữa…

Với những dữ kiện, tin tức, của trưởng toán xâm nhập Nguyễn Bá Sơn trình lên, tôi quyết định móc nối, ép Trịnh Công Sơn làm tình báo viên xâm nhập trong tổ chức trí vận và tổ chức học sinh, sinh viên giải phóng của cơ quan Thành Ủy VC Huế.

Công việc nầy không khó. Vì đã nắm rất vững vàng và có đầy đủ bằng cớ là Trịnh Công Sơn hoạt động CS, nên khi tôi bí mật tiếp xúc với Trịnh Công Sơn tại nhà an toàn của cơ quan tình báo Thừa Thiên-Huế, trong khoảng thời gian gần 4 tiếng đồng hồ, TRịNH CÔNG SƠN, không còn cách nào khác, buộc phải cộng tác.

Và tôi có tin Trịnh Công Sơn không? Theo bản tính nghề nghiệp, dĩ nhiên, tôi phải nói chữ không. Ngay sau đó, tôi cài thêm một nhân viên tình báo xâm nhập tiếp cận vói Trịnh Công Sơn và những bạn bè cơ sở nội thành VC của Trịnh Công Sơn để có thể theo dõi và phối kiểm một số tin tức mà Trịnh Công Sơn cung cấp cho chúng tôi, cho đến tận ngày 29 tháng tư 1975.

Nhân viên này chính là một nhân chứng sống, để có thể xác nhận cho những ai còn thắc mắc rằng có phải Trịnh Công Sơn là nhân viên tình báo xâm nhập của lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế, gài trong tổ chức cơ quan trí vận của thành ủy VC Huế hay không. Chính anh ta là người mà tôi đã giao cho ba giấy chứng nhận để đưa tận tay cho ba người: Trịnh Công Sơn và 2 người khác, xin tạm dấu tên.

Đó là ba “sự vụ lệnh công tác đặt biệt’ do tôi, với tư cách là Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế và là Tổng Thư Ký điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, “yêu cầu mọi cơ quan Quân, Dân Chính, giúp đỡ người cầm giấy này đang thi hành phận sự”.

Sự Vụ Lệnh đặc biệt mà tôi cấp cho Trịnh Công Sơn là một lá bùa hộ mạng cực mạnh, bao bọc cho anh ta trong suốt nhiều năm. Nó đã giúp anh ta trốn quân dịch, khỏi bị bắt trong các cuộc ca hát phản chiến, hoặc biểu tình chống chiến tranh, chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa .

Vậy mà trong nhiều năm qua tại hải ngoại có một vài bài viết nói rằng trong thời gian chiến tranh, Trịnh Công Sơn phải trốn tránh cực khổ, nhọc nhằn để khỏi bị bắt đi quân dịch. Rõ là họ chỉ viết theo trí tưởng tượng, những hiểu biết mù mờ, hoặc theo lời kể vu vơ mơ hồ đâu đó.

Nhân viên giao sự vụ lệnh đặc biệt của tôi cho Trịnh Công Sơn hiện đang định cư tại vùng ngoại ô Washington D.C. Hoa Kỳ. Anh ta là một nhân chứng sống về vụ nầy.

1- Lý lịch ghi nhận tại cơ quan CSQG Huế


Sinh ngày 28/2/1939
Học lực: Tú tài I, tức lớp 11. Chương trình Pháp.
Tốt nghiệp trường sư phạm Quy Nhơn.
Giáo viên Tiểu học.
Nghiện rượu và thuốc lá nặng.
Sức khỏe trung bình. Bị bệnh xuất tinh sớm, sau đó đến 1974 hoàn toàn bất lực.
Bản chất: Trầm lặng, kín đáo, khôn ngoan, giỏi che đậy ý nghĩ của mình. Xem trọng tiền bạc, có tính phản bội, trọng phú khinh bần, sẵn sàng quay lưng với bạn bè hay ân nhân của mình trước kia, nếu như họ sa cơ lỡ vận.

Gia đình

Phụ thân của Trịnh Công Sơn là một quân nhân phục vụ trong quân đội Pháp, ngành tình báo, phòng 2. Ông bị tử nạn xe hơi do xe của quân đội Pháp gây ra.

Trịnh Công Sơn có một người cậu ruột tên là Lê Văn Tông, một thương gia giàu có tại đường Phan Bội Châu, Huế. Ông nầy có vợ lai Pháp hiện định cư tại Pháp. Ông ta là võ sư Nhu Đạo Judo Club Huế. Thật ra Trịnh Công Sơn không học nhu đạo ngày nào cả. Có lẽ Trịnh Cung không biết, nên đã viết Trịnh Công Sơn có tập nhu đạo. Trịnh Công Hà, em Trịnh Công Sơn mới học nhu đạo. Hà là người từng gây chấn thương cho Trịnh Công Sơn khi Trịnh Công Hà dùng một thế võ khóa chặt Trịnh Công Sơn giữa sàn nhà, trong lúc hai anh em giỡn chơi với nhau.

Trịnh Công Sơn là anh đầu trong một gia đình đông con.

Các em trai là:
1- Trịnh Công Hà: Sĩ Quan Quân Lực VNCH. Cấp bậc cuối cùng: Đại úy
2- Trịnh Xuân Tịnh: Trốn quân dịch.
Các em gái:
1- Trịnh Vĩnh Thúy: Chồng là giáo sư Ngô Kha.
2- Trịnh Vĩnh Tâm: Chồng là Đại úy QLVNCH Hoàng Tá Thích. Hoàng Tá Thích có anh ruột là Hoàng Xuân Tùy cấp bậc Đại Tá, Chính ủy Sư Đoàn Điện Biên Việt Cộng. Sau 1975 làm Thứ Trưởng Bộ Đại Học.
3- Trịnh Thị Hồng Diệu: Không có gì đặc biệt.
4- Trịnh Thị Vĩnh Ngân: Không có gì đặc biệt.
5- Trinh Vĩnh Trinh, em út: Theo ghi nhận, Trịnh Vĩnh Trinh cùng mẹ khác cha với những người trên.

Đã có quá nhiều tranh cãi về Trịnh Công Sơn, quá nhiều câu hỏi được đặt ra: 

"Trịnh Công Sơn bên mô? Bên ni? Bên tê?”

Xin mời xem tiếp Phần 2.

Liên Thành

Trịnh Công Sơn Và Những Hoạt Động Nằm Vùng 


Bài liên quan:

Trịnh Công Sơn Và Những Hoạt Động Nằm Vùng (Phần 2) (Liên Thành)

Trinh Công Sơn Và Tham Vọng Chính Trị (Trịnh Cung)

Trịnh Công Sơn bưng bô ... (Trịnh Công Sơn)

Viết về một bản nhạc tình (Lê Như Đức)

Bài hát "Gia Tài Của Mẹ" của Trịnh C.S bị chạm nọc (Họa sĩ Babui)


Nhận xét

Bài được quan tâm

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 216

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 217

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 215