Ngư dân Việt Nam:
làm mồi cho Trung cộng
ở Biển Đông
Lý Sơn, Việt Nam : Vào một buổi sáng ấm áp, trời tháng 6 vùng biển Đông tĩnh lặng, một con tàu khổng lồ lao vào một chiếc tàu đánh cá bằng gỗ sơn màu xanh và treo cờ Việt Nam.
Thuyền trưởng đánh cá nổ máy tàu định bỏ chạy, nhưng tàu lớn đã thả hai xuồng máy xuống biển với bọn lính mặc sắc phục. Hai xuồng cao su đua nhau áp sát hai bên tàu đánh cá, siết chặt lại như gọng kìm.
Khi thuyền trưởng giảm tốc độ để tránh va chạm, con tàu lớn liền lao vào họ. Trên thân tàu bằng thép của ghi: Trung hoa.
Chen chúc trong cabin để đảm bảo an toàn, 17 ngư dân bị hất văng xuống boong vì một cú va chạm gần như lật thuyền. Sau đó tiếp một cú đâm, một cú nữa và tiếp tục một cú đâm khác. “Giống như đánh nhau”, ngư dân Nguyễn Day nhớ lại.
Tàu Trung cộng đập liên tiếp vào tàu cá, làm hư hỏng cabin. Bốn ngư dân bị hất ngã xuống biển. Khi những người Trung cộng kéo họ lên khỏi mặt nước, Day, 41 tuổi, và những người Việt khác bị nhét vào một xuồng cấp cứu và đứng nhìn chiếc thuyền của họ – chất đầy hàng trăm ký cá ngừ, cá thu, cá mú và cá chuồn – bắt đầu trôi đi.
Cuộc tấn công ngày 10 tháng 6 là một phần trong cuộc tấn công kín của Bắc Kinh ở Biển Đông. Các tàu Trung cộng đang sử dụng các chiến thuật ngày càng gây hấn để ngăn cản các quốc gia đối thủ và giành quyền kiểm soát trên tuyến đường thủy chiến lược.
Không lo lắng trước những lời chỉ trích toàn cầu ngày càng nhiều, hạm đội hải quân, tuần duyên và bán quân sự của Trung cộng đã đâm tàu đánh cá, quấy rối các tàu thăm dò dầu khí, tổ chức các cuộc tập trận và theo sát các cuộc đi tuần của hải quân Mỹ.
Các cuộc phô trương vũ lực ngày càng leo thang đã áp đảo các quốc gia Đông Nam Á nhỏ hơn cũng yêu sách các vùng biển, một trong những ngư trường và tuyến thương mại nhộn nhịp nhất thế giới cũng như lượng dầu và khí thiên nhiên chưa được khai thác.
Chủ nghĩa bành trướng hàng hải của Bắc Kinh không chỉ thể hiện sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, còn thể hiện sự sẵn sàng thách thức các nước láng giềng và luật pháp quốc tế để thực hiện tầm nhìn sâu rộng về quyền lực của Tập Cận Bình.
Trong nhiệm vụ chiến lược nhằm thống trị đường thủy ngăn cách đại lục châu Á với đảo Borneo và quần đảo Philippines, Trung cộng đã xây dựng các tiền đồn quân sự trên các đảo và rạn san hô đang tranh chấp mà theo Tập, “là lãnh thổ của Trung cộng từ thời cổ… do tổ tiên để lại cho chúng ta.” Mạng lưới các căn cứ, bến cảng và bãi đáp sâu trong vùng biển quốc tế đã tạo ra vùng đệm cho đường bờ biển phía nam của Trung Quốc, tiếp tục bao vây Đài Loan và thách thức khả năng di chuyển tàu của Mỹ vào châu Á.
“Có vẻ như Trung cộng đang phát triển nhanh chóng năng lực nhằm loại trừ các lực lượng hải quân khác khỏi Biển Đông,” Bill Hayton, một tác giả và cộng sự tại cơ quan tư vấn Chatham House, nói với một ủy ban quốc hội vào tháng 9. ( H1 Đoàn tàu đánh cá đậu tại Lý Sơn)
Dưới thời chính quyền Trump Mỹ mang nhiều tàu chiến hơn mức bình thường qua khu vực vào năm 2020 để khẳng định quyền hàng hải. Mỹ gọi Trung cộng là “kẻ bắt nạt” đang tìm kiếm một “đế chế hàng hải”. Nhưng các hoạt động này đã không làm được gì để giành lại các đảo nhỏ và vùng biển 5 quốc gia Đông Nam Á và Đài Loan tuyên bố là Bắc Kinh đã chiếm đoạt.
Các quốc gia này gần như không có đủ sức mạnh hải quân riêng để làm mất lòng Trung Quốc. Thay vào đó, chính phủ Việt Nam, Philippines và các quốc gia khác đã tiến hành một hình thức phản kháng yên lặng hơn bằng cách khuyến khích các cộng đồng ngư dân tiếp tục mạo hiểm vào các vùng biển tranh chấp – đặt họ vào tuyến đầu trước sự xâm lược của TC.
Mèo vờn chuột
Đây là một trò chơi mèo vờn chuột trên biển, một siêu cường với hạm đội lớn nhất thế giới – với hơn 300 tàu hải quân, 130 tàu tuần duyên lớn và lực lượng dân quân hàng hải với hàng trăm nghìn thuyền cơ giới – đối đầu với những ngư dân được trang bị chẳng gì hơn ngoài lưới đánh cá để kiếm được vài trăm đô la cho mỗi chuyến ra khơi.
Các tàu gỗ cũ kỹ với hệ thống định vị đơn giản, ngư dân phải tránh bị bắt trong khi săn lùng hải sản hiếm hoi trên một vùng biển bị tàn phá do đánh cá và nạo vét không được kiểm soát, phần lớn là do Trung cộng thực hiện.
Greg Poling, Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế cho biết: “Khi nguồn hải sản suy giảm do khai thác quá mức và môi trường bị tàn phá, ngư dân Việt Nam và Philippines ngày càng đi đánh bắt xa bờ hơn và chấp nhận rủi ro lớn hơn ở các vùng biển tranh chấp. “Điều đó giúp giải thích tại sao họ thường xuyên tiếp xúc với lực lượng hành pháp và quân y Trung Quốc”.
Ngư dân Trần Hồng Thọ thừa nhận những ngày này người Việt Nam đi biển xa hơn. “Biển gần bờ đã hết cá,” anh nói.
Bắc Kinh không biện hộ về các hành động của họ, họ cho đó là lực lượng hải cảnh chống đánh cá trái phép. Vào tháng 9, hải cảnh Trung cộng báo cáo đã trục xuất 1.138 tàu đánh cá nước ngoài khỏi phía bắc của Biển Đông trong 4 tháng trước đó, lên tàu và kiểm tra hàng chục tàu khác, đồng thời bắt giữ 11 tàu và 66 thuyền viên nước ngoài, “bảo vệ hiệu quả lợi ích nghề cá và quyền hàng hải.”
Đối với cộng đồng ngư dân ven biển miền Trung của Việt Nam, đối đầu với Trung cộng thể hiện nghĩa vụ tập thể – bảo vệ vùng biển mà nhiều thế hệ đã kiếm sống ở đó.
“Chính phủ Việt Nam coi ngư dân như một tượng đài sống để khẳng định chủ quyền biển Đông”, ông Lê Khuân, Chủ tịch nghiệp đoàn nghề cá trên đảo Lý Sơn nói.
Biển Đông đã nối các nền văn minh trong hàng nghìn năm – từ những con tàu buôn Mã Lai đến mua lụa Trung hoa, gia vị Ấn Độ và trầm hương Ả Rập dọc theo hành lang thương mại cổ đại giữa châu Âu và châu Á, đến những tàu chở hàng và tàu container băng qua các đại dương và quyền lực thương mại toàn cầu hóa ngày nay. Hàng năm ước tính có khoảng 3,4 nghìn tỷ USD hàng hóa đi qua vùng biển, trong đó có 14% tổng thương mại của Hoa Kỳ, 40% của Trung cộng và 86% của Việt Nam.
Một phần ba trong số 96 triệu dân của Việt Nam sống ở bờ biển ngoằn ngoèo, nơi những đàn thuyền nhỏ màu xanh và đỏ giống hệt nhau nhấp nhô trên những bến cảng xiêu vẹo. Với khoảng 12% sản lượng đánh cá toàn cầu vào năm 2015, biển đã đưa Việt Nam trở thành nước xuất thủy sản hàng đầu và nuôi sống gia đình của ít nhất 1,8 triệu người làm nghề đánh cá biển.
Va chạm ngày 10 tháng 6 xảy ra ngoài khơi một trong những khu vực gây tranh luận nhất: quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam, Trung cộng và Đài Loan cùng tuyên bố chủ quyền, nhưng bị Trung cộng chiếm đóng hoàn toàn kể từ khi quân đội Trung cộng đánh đuổi lực lượng Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1974.
Chuỗi các đảo và rạn san hô – được gọi là Hoàng Sa trong tiếng Việt và Tây Sa trong tiếng Trung hoa – nằm cách cả bờ biển miền Trung Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung cộng khoảng 150 hải lý. Trên đảo Phú Lâm, lớn nhất trong quần đảo, Bắc Kinh đã xây dựng trung tâm hành chính và quân sự trên biển, làm xong phi đạo, hai bến cảng, dàn hỏa tiễn đất đối không, hệ thống giám sát và trinh sát, nhà máy khử muối – thậm chí là một khu du lịch cho đại lục.
Việt Nam tố cáo việc Trung cộng chiếm đóng các đảo bất hợp pháp và hậu thuẫn bởi các cộng đồng đánh cá bằng cách trợ cấp nhiên liệu, các khoản vay ưu đãi.
Ở đảo Lý Sơn, một hòn đảo có các ngôi chùa Phật và các ruộng tỏi cách bờ biển 20 dặm, hơn 500 tàu thuyền đánh cá đi vào những vùng biển tranh chấp. Phòng khách của các cựu thuyền trưởng có treo bằng chứng nhận của chính quyền cấp tỉnh về những năm đánh cá của họ ở Hoàng Sa.
Bất lực
Mặc dù không có ngư dân nào được cho là đã thiệt mạng trong một vụ va chạm cố ý, nhưng mỗi chuyến đi giờ đây đều có nguy cơ xảy ra đụng độ – và thiệt hại tài chính.
“Không biết bao nhiêu lần thuyền của tôi bị tàu Trung cộng tấn công hoặc xua đuổi – rồi cũng quen,” Dương Minh Thanh, một thuyền trưởng 65 tuổi ở Lý Sơn, bắt đầu đánh cá ở Hoàng Sa từ những năm 1980.
Trung cộng từng bắt ngư dân đòi tiền chuộc; những ngày này, họ phá những chiếc thuyền nhỏ hơn, cho ngư dân vào các cabin trước khi can thiệp. Hải sản đánh bắt được và thiết bị thường bị tịch thu, ngư dân đôi khi bị đánh đập. Lần đụng độ gần đây nhất của ông Thanh diễn ra vào tháng 8, khi anh thoát khỏi một tàu Trung cộng đã tấn công thuyền anh và yêu cầu trở về Việt Nam.
“So với họ, con thuyền của chúng tôi nhỏ như một con kiến,” ông nói. “Đánh gần bờ an toàn hơn, nhưng chúng tôi kiên quyết đánh ở Hoàng Sa vì đó là kế sinh nhai của chúng tôi từ bao đời nay. Nó giống như sân sau của chúng tôi. Hoàng Sa là của chúng ta, vậy tại sao lại sợ hãi?”
Đầu tháng 6, anh Nguyễn Lộc, thuyền trưởng tàu cá QNG 96416, tạm biệt vợ và 4 con, rời ngôi nhà hai tầng khang trang ở Lý Sơn. Lộc đi tàu về hướng đảo Linh Côn ở Hoàng Sa đông, cách đảo Phú Lâm khoảng 20 dặm, nơi nổi tiếng có nhiều hải sâm.
Chiếc thuyền dài hơn 15 mét chất đầy hải sâm với giá trị gần 200 triệu đồng khi bị tàu Trung cộng và hàng chục lính chặn lại, họ chĩa vũ khí vào thủy thủ đoàn.
LínhTrung cộng kéo bốn ngư dân bị rớt xuống biển lên, sau đó đưa tất cả 17 người lên mũi tàu của họ. Ngư dân chứng kiến cảnh lính Trung cộng nhảy lên tàu cá chòng chành, thu giữ lưới, thiết bị định vị và mọi thứ họ bắt được.
Lộc cầu xin bằng tiếng Việt để người Trung cộng neo thuyền của mình ở vùng nước nông để nó không trôi đi, nhưng họ từ chối. Không bên nào hiểu bên nào. Sau đó xảy ra cự cãi, một người đá vào đầu Lộc.
Sau đó thì chẳng ai nói gì.
Ngư dân được yêu cầu ký vào các mảnh giấy in bằng tiếng Trung Quốc, sau đó được phép quay trở lại tàu đã bị lục soát. Cabin gần như bị lật và các cửa sổ bị vỡ vụn. Nước đã ngấm vào máy, vì vậy họ phải làm khô máy trước khi có thể cho thuyền đi trở lại.
Phải mất hai ngày hai đêm họ mới quay lại được Lý Sơn với la bàn cầm tay. Ngư dân ngủ ngoài trời, gặm bún sống và bánh tráng.
Cuối cùng khi họ lên bờ, chính quyền địa phương đã ra lệnh cách ly họ. Một quan chức giải thích rằng vì họ đã gặp những người Trung Quốc, có thể họ đã nhiễm virus corona.
Mặc dù có chính quyền cộng sản, nhưng người Việt Nam vẫn chống Trung cộng sâu sắc từ ngàn năm đô hộ và ba cuộc xung đột chết người trong những năm 1970 và 1980. Năm 2014, căng thẳng trên biển bùng phát sau khi một giàn khoan dầu Trung cộng tiến sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây ra một cuộc biểu tình kéo dài nhiều tuần và bạo lực trên khắp đất nước.
Lãnh đạo Việt Nam thậm chí không thoải mái hơn sau khi Trung cộng từ chối chấp nhận phán quyết của tòa trọng tài năm 2016 bác bỏ “quyền lịch sử” của Trung cộng về đường 9 đoạn.
Trong khi Philippines, quốc gia đã đệ đơn vụ kiện và các bên tranh chấp khác đã giảm căng thẳng với Trung Quốc, Việt Nam đã lên tiếng kiên quyết hơn chống lại chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh, góp phần vào quan hệ hợp tác với Washington.
Vào tháng 3, Hà Nội đã đón hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt cập cảng Đà Nẵng, một hành động làm Bắc Kinh khó chịu. Bốn tháng sau, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố yêu sách đường chín đoạn của Trung cộng “hoàn toàn trái pháp luật”, chính thức tán thành phán quyết năm 2016. (H2. Hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt ghé Đà Nẵng)
Linh Nguyen, nhà phân tích tại Control Risks, một công ty tư vấn, cho biết: “Khi có cảm giác có được sự yểm trợ mạnh mẽ hơn từ các quốc gia khác, kể cả Mỹ, Việt Nam thể hiện bộ mặt cứng rắn hơn với TC”. Bà nói thêm, với việc đại hội đảng 5 năm một lần vào đầu năm tới, “ban lãnh đạo tập trung vào việc xây dựng tính chính danh với người dân, vì vậy điều quan trọng hơn là mềm mỏng với TC”.
Thất vọng
Vào tháng 4, Hà Nội đưa ra một tuyên bố gay gắt bất thường, nói rằng hành vi của Trung cộng “đe dọa tính mạng và thiệt hại tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam”. Vài ngày trước đó, Trần Hồng Tho đang thả neo chiếc tàu mới dài gần 20 mét ngoài khơi đảo Phú Lâm thấy đèn xanh đỏ của tàu Trung cộng đang tiến đến. Người Trung cộng phun vòi rồng và đá trước khi đâm vô làm cho chiếc tàu muốn gãy làm đôi.
Trung cộng đưa tám người Việt Nam ướt sũng lên tàu của họ chứng kiến chiếc tàu anh Tho đóng chỉ mới một năm chìm xuống nước cùng với sáu tấn hải sản bắt được.
Anh Tho và ngư dân khác vẫn bị giữ cho đến chiều hôm sau, chỉ được cho nước và bánh mì, khi ba chiếc thuyền khác của Việt Nam đến tìm họ. Ông Tho nói, người Trung cộng cũng đuổi theo họ, trước khi giao ông và các ngư dân lại.
“Mình làm được gì giờ?” Tho cho biết khi một phóng viên đến thăm anh tại ngôi nhà một tầng ở xã ven biển Bình Châu. “Tàu của Trung cộng lớn gấp hàng chục lần tàu của mình. Tất cả đều được trang bị vũ khí. Chúng tôi không dám đối đầu ”.
Tho bắt đầu đi đánh cá cho một thuyền trưởng khác, với hy vọng kiếm lại được một số tiền đã vay để đóng tàu. Vào tháng 10, chính quyền tỉnh từ chối trợ cấp 3.200 đô la nhiêu liệu cho anh để đi chuyến đi định mệnh vào tháng 4 với lý do anh ta đã ở 15 ngày ở Hoàng Sa.
Chỉ trích chính phủ rất nguy hiểm trong chế độ độc đảng Việt Nam, nhưng Tho không thể che giấu sự tuyệt vọng của mình. Ông nói: “Ngư dân chúng tôi phải tự mình chống chọi và khổ sở để khắc phục thiệt hại khi tàu thuyền của chúng tôi bị Trung cộng tấn công. Thành thật mà nói, tôi thất vọng.”
Các nhà lãnh đạo ngành đánh cá cho biết Chính phủ Việt Nam đã chậm trễ trong việc tăng cường tài chính cho các ngư dân bị tấn công. Một vụ chìm tàu có thể dẫn đến thiệt hại hàng chục nghìn đô la, nhưng các chủ tàu thường chỉ được bồi thường một phần nhỏ.
Nguyễn Việt Thắng, cựu Thứ trưởng Bộ Thủy sản, cho biết các chính sách hiện hành của chính phủ “chỉ nhằm động viên tinh thần, không giúp ngư dân khắc phục thiệt hại”.
Vô vọng?
Các sáng kiến khác đã được thành lập. Một kế hoạch trị giá 400 triệu USD để giúp ngư dân nâng cấp lên những chiếc thuyền vỏ thép được sản xuất thủ công không đạt tiêu chuẩn đã nhanh chóng bị bỏ. Theo thống kê của chính phủ, một lực lượng dân quân hàng hải chính thức ra mắt cách đây một thập niên đã đóng quân trên 8.000 tàu cá, chiếm 1% đội tàu đã ghi danh.
Tháng 12 năm ngoái, Bộ Quốc phòng đã công bố kế hoạch tăng cường lực lượng dân quân biển ở 14 tỉnh để “bảo vệ chủ quyền và phát triển kinh tế”, nhưng ngư dân nói rằng họ vẫn chưa biết đến các đơn vị mới.
Nguyễn Thế Phương, nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Sài Gòn cho biết: “Cơ cấu và hoạt động của lực lượng dân quân biển của Việt Nam không được điều phối theo một chiến lược lớn. Hiện tại, chúng tôi đang thiếu cách thức chặt chẽ và hiệu quả hơn để chống lại những gì Trung cộng đang làm.”
TC tăng cường chỉ trích, qua truyền thông nhà nước cáo buộc Việt Nam trang bị cho hạm đội để khuyến khích đánh bắt bất hợp pháp. Từ lâu nay, tàu thuyền Việt Nam được biết là vi phạm không chỉ vùng biển của Trung cộng mà còn cả những vùng biển của Indonesia và Malaysia – hành động đã khiến Liên minh châu Âu rút “thẻ vàng” hải sản có thể dẫn đến trừng phạt thương mại đối với Hà Nội năm 2017.
Với các ước tính cho thấy trữ lượng cá trên biển đã giảm 70-95% kể từ những năm 1950, một chuyên gia tư vấn của Đại học Bắc Kinh gần đây đã gọi việc đánh bắt bất hợp pháp của Việt Nam là “sự thách thức nghiêm trọng nhất đối với an ninh hàng hải ở Biển Đông”.
Tuy nhiên, nhiều chuyên viên cho rằng Trung cộng là thủ phạm chính trong việc đánh cá quá mức, đưa ra những ưu đãi lớn cho hạm đội vũ trang và ngư dân thường xuyên của họ để mạo hiểm đi sâu vào các vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác, từ Mỹ Latinh đến Nam Cực.
Việc gia tăng các tàu vũ trang có thể làm căng thẳng, đặc biệt là khi các chính phủ không đạt được tiến bộ về quy tắc ứng xử ràng buộc pháp lý đối với các vùng biển tranh chấp và không quốc gia nào theo đuổi thỏa thuận về cách quản lý nghề cá ở vùng biển đang kiệt quệ nhanh chóng.
Poling cho biết: “Các cuộc đụng độ sẽ gia tăng khi Trung cộng tăng cường kiểm soát trên thực tế và nguồn dự trữ [cá] mất đi. Cuối cùng chúng ta sẽ thấy thiệt hại đời sống nếu cứ tiếp tục như vậy.”
Ngư dân Lý Sơn không bỏ Biển Đông. Năm tới, khi mùa bão dịu đi và mặt nước lặng trở lại, Lộc và ngư dân của mình sẽ lại ra Hoàng Sa – tìm kiếm những con cá mà cha ông họ đã bắt được.
Ông Lộc nói: “Tôi đã ra biển được 20 năm rồi và chưa bao giờ nghỉ ngoại trừ những lúc biển động. Tôi sẽ tiếp tục đi biển cho tới chết.”
*
SHASHANK BENGALI & VO KIEU BAO UYEN. 11/2020
**
Nhận xét
Đăng nhận xét