Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Phạm Tín An Ninh
ACE Thân quý,
Chiến tranh đem lại đau thương, người Việt hai miền đất nước đều trải qua những ngày tháng kinh hoàng đó. Nhân danh chủ nghĩa, bọn đầu sỏ Ba Đình đã đưa bao nhiêu thanh niên miền Bắc rời xa gia đình với khẩu hiệu "Sinh Bắc tử Nam". Anh em cùng cha, cùng mẹ, cùng một giòng máu chém giết nhau như kẻ thù! Vì sao nên nỗi?
Câu chuyện có thật và bi thương dưới đây, gửi đến ACE ngày đầu xuân để thấu hiểu được nỗi đau của Mẹ Việt Nam. Mẹ sinh con ra từ trong lòng mẹ, cha cõng con trên lưng và che phủ con bằng chiếc áo giáp quân đội VNCH. Gia đình thất lạc, và con trở thành ngàn năm xa lạ! Ai chịu trách nhiệm cho những đau thương rỉ máu muôn đời này?
Riêng tặng Minh, người bạn trẻ đau khổ với sự phân hoá chính trị trong gia đình. Với người cha đã có hơn 50 năm tuổi đảng, và cậu con, một kỹ sư hoá học đi biểu tình chống Trung cộng bị công an csVN đánh cho mặt mũi không còn nhìn ra. Chúc em và gia đình một mùa xuân bình yên. Đất nước chúng ta sẽ thay da đổi thịt vì những người như em.
Nguyễn Tường Tuấn
Posted on February 16, 2021 by dongsongcu
Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng gía, nhưng lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả
nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá
xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học , cũng đã có vài chàng
học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo sau tôi những buổi học tan trường. Lên
năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường
tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh
là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời còn ở
trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình
đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở.
Ông xã tôi là lính Biệt Động Quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới,
đôi giầy saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới của chúng tôi được
tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa trải qua
khói lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi
phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi
tôi phải sống một mình. Chỉ khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh
điện tín để tôi lên với anh.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con
trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là
Cao Nguyên. Lê Cao Nguyên. Anh về thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao
Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành
tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương
nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên
Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi
thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn
đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công
tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng
tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp
việc. Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn
bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một
vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra
thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai
tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng
tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn
lên và yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy,
những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân.
Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ
để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày
bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “may mà có anh đời còn dễ
thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc. Một
buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, anh hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp
việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang những gì cần thiết, nhất là
thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã
ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ
ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không
một tiếng gĩa từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng
tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ
Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa
lính, đủ các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi
và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động
Quân còn được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn
quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành
quân triệt thoái.
Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc
trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp
nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị
BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch qúa đông, mà bên ta thì vừa quân vừa dân
chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta
thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe
vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp
hướng. Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không
nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về
Củng Sơn.
Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ
con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi
lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn
đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con suối nhỏ. Chồng tôi lo chỗ
ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh
gác. Mệt qúa, tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc thì trời vừa sáng.. Chúng tôi lại
tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải
dùng cái võng nylong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp.
Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo
nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu.
Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự
sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng
kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại
tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của
địch.
Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống. Tiếng
la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như
trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng có một số người đã chết.
Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài
người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh
nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu
được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết
người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số
mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động Quân một thời oanh liệt trên khắp
chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật
khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “Đạp lên
mà đi!”. Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận được
cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán
lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi.. Thầy trò chưa kịp nắm tay
mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng
tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến,
toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con
nít chúng tôi đi tiếp.
Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn
người. Tôi hình dung cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi
thấp. Tôi nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm
để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài
anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua
đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ
con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng
tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn
nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để
lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh tội nghiệp cho một người con gái đã trót
chọn chồng là lính chiến. Và cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh
dành cho tôi.
Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng
là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can trường. Các anh phân
tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “Biệt Động Quân Sát”
vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh
trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả
đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu
theo một người lính bị thương khác. Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy.
Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả
những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ
của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn
truyện Tàu mà tôi đã đọc.
Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn,
chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt
lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời
con đường mòn, chạy về bên hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an
toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính BĐQ nằm chết bên cạnh xác
quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch
bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.
Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị một đám
khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa
vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều
người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước
họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng
tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im,
chỉ còn tiếng quát tháo và tiếng nói rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất
cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng
Sơn (Sơn Hòa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn: Chị giúp
việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa
lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt
nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây
lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết
ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.
Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng
vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa.
Tôi không đủ can đảm để mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin
tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang
mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc.
Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một
tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở
lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái
ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai
út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.
Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị
tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn
ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương vãi đó đây,
bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn
bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng
đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một
số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó,
trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho vào trại. Sau
khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh,
tôi xin được gặp bất cứ sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi gặp
được anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một
số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết
chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó.
Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người thượng, theo tôi lần
theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa
đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một
số mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo
niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích
tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm
đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi
vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc
đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây. Lần nào, khi nước mắt ràn rụa,
trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng
bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do
bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.
Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định
cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng
5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn
đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng
với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị
đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng
chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên
biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.
Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng
cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi
chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha
và anh mình. Chúng tôi đến đây vào giữa mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng
và đứa con trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành
Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng
cháu Thùy Dương , còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp
việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc
tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình
trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu
sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải
biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo
nàn mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây
mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa
mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở
nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông
tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả
bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường
đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm
trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc
nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
Rõ ràng hoa rụng hương bay.
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng
bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại
thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường
hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho
biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều
thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng
chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở
vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và
M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây
số.
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã
nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói
gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước
nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ
phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều
này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc người Thượng, chúng tôi đến
một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng
tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà
này ra khỏi lồng. Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen vừa ốm, nói
tiếng Việt chưa sõi…Khi Anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng
giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu
một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận
pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau
khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng
binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.
Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta.
Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái
tóc mầu nâu sậm như mầu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày
trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi chợt
nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi
cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai
cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt
trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng Thượng. Vợ
chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới
chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu
Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước.
Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này
xem có giống ai không? Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi
không trả lời tôi mà thì thầm một mình:- Thằng Nguyên? Chả lẽ là thằng cu
Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê
Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu.- Tao là thằng Ksor Tlang.
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi
đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:- Mày bắt cái con gà
nhiều tiền qúa!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi
chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ
bà ta là người có tai mắt ờ đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại
gọi công an. Chưa đầy ba phút hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh
một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an
ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng
Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai
người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía
sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại
các điều trao đổi giữa tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông
tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.
– Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?- Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.
– Có anh em không?- Không.
– Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn
Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo
chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô
không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi giùm chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá gìa, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi
nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã
công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng
chạy sang nhìn.
Lúc đầu, ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng
thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể
lại sự thực.
– Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải
nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người
lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của
tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây
giờ.- Rồi xác của người lính đó ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông gìa mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng
Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt
một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải
thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi
về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông
bà gìa, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho ông bà
sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo là họ
không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể nào
sống xa rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi.
Ban đầu tôi tính xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ
của chồng tôi, mang về an táng ở nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi
đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của
anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về
anh. Và chắc có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một thời cùng anh
vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất quanh đây. Tôi mướn thợ
xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh
chụp chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật
bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc
nào tôi cũng mang theo.
Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã
cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó
đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều
gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ
thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc
chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới.
Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng
đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an!
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi
nhà sàn mới. Buổi chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng
với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó qùy bên cạnh
tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe.
Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình. Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng
liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không
bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày
xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu
trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi
mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương
người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào
trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?
Phạm Tín An Ninh
(Phỏng theo lời kể của một
người vợ lính BĐQ)
Nhận xét
Đăng nhận xét