ĐI TÌM XÁC EM TÔI

ĐI TÌM XÁC EM TÔI


Kim Chi

Em trai tôi đi vượt biên vào tháng 12/1980 cùng với anh H, bạn trai của tôi. Nào có ai ngờ được cả hai anh em ra đi mãi mãi...
Tôi là con gái thứ năm trong gia đình có bốn chị em gái và hai anh em trai. Anh Ba tôi đã trầy vi tróc vảy mới lấy được mãnh bằng Bác sỹ Thú y giữa những duyệt xét lý lịch thật khắt khe lúc ấy. Còn Trị, là em út, học giỏi nổi tiếng trong trường lớp, đánh ping pong đoạt rất nhiều giải thưởng ở cấp tỉnh, đại diện quân khu đi thi đấu toàn quốc, lại ngoan ngoãn nhất nhà... Nhưng, xin ai đó trả lời giùm tôi: em tôi đã ruồng bỏ đất nước? Hay đất nước này đã từ chối, ruồng bỏ em tôi? Em đã bị bọn Cộng Sản ngành Giáo dục tàn nhẫn gạt tên em ra khỏi danh sách các thí sinh đậu, dù danh sách đăng bảng tại trường đại học em thi có tên em đậu với thứ hạng cao. Khi má tôi đến ty Giáo dục tỉnh Bình dương, nơi gia đình tôi đang sống lúc ấy, hỏi sao có sự nhầm lẫn này?.. Họ đã nhiếc mắng má tôi thật thậm tệ, xối xả:
- ĐM... Bà đi dề đi! Gia đình bà là đám ngụy quyền, là bè lũ phản động đầy nợ máu dới nhân dân. Đám con cháu của bà cả ba đời cũng đừng hòng bước dô bất cứ cổng trường đại học nào hết! ... Hết thời rồi! Đừng mơ tưởng nữa!... Đ....M...

Anh H đã tốt nghiệp đại học, lại có việc làm thật tốt mà biết bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp đại học khi ấy ước ao. Lý lịch gia đình của anh cũng không tồi tệ giống như gia đình tôi, rất "trong trắng" : gia đình anh H không hề có bất cứ ai là "ngụy quân" lẫn "ngụy quyền". (Cũng không hề có ... "nón cối" nào là thân thuộc!). Nhưng, vì anh H thấy tôi muốn đi vượt biên quá đổi, nên anh chìu ý tôi, đặt cọc hai chổ ngồi cho tôi và anh lên tàu. Quyết định của đứa con trai cưng nhất nhà này đã làm cho ba má và gia đình anh rất ngạc nhiên, để rồi sau đó là một nỗi đau tột cùng cho gia đình anh, cũng là nỗi ray rức đăng đẳng suốt cuộc đời tôi...

Người chủ chiếc tàu nghiệt ngã này là bạn trong giới sinh viên của anh H. Hắn quá sức tham lam, nhận khoảng trên hai trăm người leo lên con tàu thật mong manh, nhỏ bé. Mà sao trời đất lại xui khiến những ngày gần sát chuyến đi, tôi lại muốn nhường cho Út đi thế chỗ tôi. Út nào có muốn đi vượt biên đâu?! Nhưng chúng tôi khuyên lơn, năn nỉ, hầu như nài ép em phải đi để có một tương lai ở ngoại quốc. Em là con trai, em cần đi hơn tôi. Ở lại VN sẽ là con cờ thí thân cho chiến trường VN và Cambuchia lúc ấy. Tôi cũng thật ngây thơ khờ khạo, nghĩ rằng anh H đến nơi rồi, sẽ bảo lãnh cho tôi đi sau! Nào ngờ...
Sau bao nhiêu năm chờ tin trong vô vọng, chúng tôi lấy ngày đi của hai anh em làm ngày giổ. Cho đến 1985, tất cả anh chị em chúng tôi đều lần lượt đến bến bờ tự do. Và ba tôi, sau bao nhiêu năm khổ nhục trong các trại cải tạo, ba cũng được bảo lãnh qua Úc sống cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, tự do. Nhưng, càng ấm êm, chúng tôi càng đau xót cho em tôi đang ở đâu đó chắc rất lạnh lẽo... Chúng tôi luôn khoắc khoải nhớ thương Út, mà riêng tôi, nỗi đau, nỗi cắn rứt này sẽ kéo dài có lẽ cho đến ngày tôi nhắm mắt....
☆☆☆

Vô tình, người kiến trúc sư VN, anh L ở Melbourne, đang vẻ họa đồ cho căn nhà của chị Tư, kể cho chị nghe chuyến đi tìm cái... đầu ông ngoại của anh! Ông ngoại của anh bị đấu tố trước năm 1954 ở miền Bắc. Gia đình lúc ấy đem cái xác ông ngoại của anh đi chôn mà thiếu cái đầu! Trong nhà làm ăn không trôi chảy, cứ có toàn những chuyện kỳ lạ xãy ra. Rồi có người chỉ anh L về VN nhờ một người có giác quan thứ sáu, chuyên tìm xác chết thất lạc lâu năm. Anh L đã về VN, theo từng chỉ dẫn của nhà ngoại cảm tên Dũng, đến thành phố Hà Tây, rồi xuống xe đò ở một ngã ba, tìm đến một căn nhà có trồng nhiều cây cảnh được cắt tỉa hình dáng các con thú vật. Vào trong ấy và hỏi tên ông Cang như anh Dũng đã bảo. Khi gỏ cửa nhà và hỏi có phải nhà ông Cang ở đây không? Ông ta bước ra, hỏi ngược lại ai đã cho biết cái tên Cang này, vì ông đã không dùng tên này có đến mấy mươi năm rồi!

Ông Cang dẫn anh L đến nơi chôn cái đầu do chính tay ông chôn ngày xưa!
Theo như những người đi chung tàu của em tôi bỏ về SG lại, con tàu không thể nào ra biển nổi vì quá khẳm, nước biển mấp mé mạn tàu, mà gió biển hôm ấy cấp sáu, cấp bảy, cộng thêm là trên đường ra cửa Cần Giờ, có một nơi có đá ngầm thật nguy hiểm, rất nhiều tàu bị đắm ngay đấy. Tôi cũng biết chuyện này khi tôi đi công tác vài lần ở Duyên Hải năm 1978, 1979. Đi trên con tàu đến đoạn đá ngầm này, gia đình chủ tàu bắt hành khách phải ngồi im, phải... khấn vái cho tai qua nạn khỏi! Do đó, chúng tôi hy vọng Út nằm đâu ̣đó không xa cửa Cần Giờ.

Chúng tôi năm người gồm có: má tôi, chị Hai, chị Tư, và cô em kế, Sáu, từ Úc Châu về. Còn tôi thì từ Canada về, cùng gặp nhau ở khách sạn Palace, Sài Gòn, để đi tìm xác Út vào tháng 11 năm 2001.

Trước khi quyết định về, chị Tư từ Úc đã phoned cho nhà ngoại cảm. Anh Dũng tốt nghiệp ĐH Khoa học trước 1975. Tuy anh rất bận rộn, nhưng vẫn vui vẻ đồng ý giúp chúng tôi mà không hề nhận BẤT CỨ THÙ LAO gì như những người khác. Chị Tư chờ giấc chiều giờ tan sở, chị phoned chào anh Dũng, báo cho anh biết chúng tôi đã về tới SG và xin anh chỉ dẫn làm sao để có thể tìm được xác Út.

Trên phone, anh bảo chị Tư kể lại các chi tiết như ngày giờ khi Út đi, em mặc đồ gì, đem theo những gì, đi với ai, đi từ đâu... Rồi anh bảo cứ thắp nhang cầu nguyện hương hồn Út. Và riêng anh cũng sẽ khấn vái, ngồi tập trung giác quan đặc biệt của anh lại. Đến tối khuya hôm ấy, anh phoned lại, anh bảo hãy chuẩn bị sẵn dụng cụ đào đất, bao nylon đựng xác, trái cây, nhang đèn... để cúng dọc đường, và anh cũng bảo ngày mai đi được rồi! Rồi anh kể ra những chi tiết anh đã và đang nhìn thấy trước được. Chị Hai của tôi nhanh nhẹn ghi chép lại thật kỹ:
- Chúng tôi đi chẳng bao lâu sẽ có một người đàn bà chỉ đường đi!
- Trên đường đi, sẽ có một người tên Tâm, một người tên Tùng giúp đỡ!
- Hãy đem trái cây, nhang đèn, thành tâm thắp hương van vái Út và Phật Bà ở một cái miếu nhỏ trước khi qua cửa Cần Giờ. Sẽ có một em bé gái nhỏ chừng sáu, bảy tuổi, tóc dài, kẹp cây kẹp ba lá, nắm tay dẫn đường đến miếu này.
- Sẽ thấy một căn nhà có cánh cửa màu xanh dương. Trước hiên nhà, một cô gái mặc áo đỏ đang ngồi ghế chơi. Từ căn nhà này, cách đấy một trăm mét, có một bãi đầy chuồn chuồn bay. Nơi đấy có một cành cây khô chết, có vướng một bao nylon rác màu trắng. Dở bao rác lên, có một cái mai con cua chết nằm ngửa, nơi đấy là nơi Út nằm!

Tất cả chỉ có bấy nhiêu tin tức để đi tìm xác thằng em trai đã mất từ hơn hai mươi năm trước. Không có lấy một tên đường, không có một số nhà, không có địa chỉ để đi tìm... Chỉ biết là phải đi đến cửa Cần Giờ mà thôi!

Chúng tôi nhờ nhân viên khách sạn Palace bao thuê một chiếc Toyota Corrola sedan, cộng với cậu tài xế trẻ, trên xe có tổng cộng sáu người.

Suốt đêm, cả nhà chúng tôi nôn nao! Bao nhiêu chuyện xưa cũ, vui ít buồn nhiều chợt ùa về trong đầu tôi. Tôi muốn ghé thăm gia đình anh H, người bạn trai của tôi đã mất tích cùng với Út. Anh đã vì tôi mà leo lên con tàu nghiệt ngã ấy. Có lẽ anh nghĩ rằng anh phải dẫn Út đi khỏi VN, nên anh đã không quay về lại SG như bao người khác... (Và Út, tôi đoán thôi, Út cũng không muốn quay về vì cũng không thể rời bỏ anh H!). Tôi muốn thắp nén hương cho anh, thăm mẹ anh, mà lẽ ra bà là người mẹ chồng nhân hậu của tôi, đã rất yêu thương tôi ngày xưa...

Đây là lần đầu tiên tôi về thăm lại VN sau mười sáu năm rời xa. Nhưng tôi vẫn nhớ như in trong đầu căn nhà thật khang trang, xinh xắn nằm trong một con hẻm rộng lớn trên đường Trần Hưng Đạo. Tôi hình dung lại những buổi cơm gia đình ấm cúng ngày cuối tuần, từng nụ cười ấm áp, từng ánh mắt rạng ngời như đón một đứa con dâu, một em dâu, một chị dâu. Bỗng... Đùng! Tất cả trôi theo thân xác của anh xuống lòng biển sâu...

Mẹ của anh tóc trắng như tuyết phủ, lưng còng gãy cụp xuống, run run nắm lấy tay tôi mà đầm đìa lệ! Tôi thắp hương cho anh, tôi cầu nguyện... Trên bàn thờ, anh vẫn cười tươi với tôi mà tim tôi sao như có ai đâm hằng trăm, hằng nghìn nhát dao...

..... Đã bao nhiêu ngày tháng năm qua rồi nhỉ?
Ai quất nghìn roi cho máu rỉ tim côi
Đời vẫn lăn hai dòng mưa nắng, nhật nguyệt
Người chẳng có tin, từ buổi ấy chia phôi...
Hôm ấy anh đi trên chuyến đò trái ngang
Con thuyền mong manh tựa như chiếc lá vàng
Lá vàng rơi em còn nhặt cài lên tóc
Thuyền bặt tin.. em chỉ khóc.. lệ như tang...

...Rời khỏi nhà mẹ của anh H, chúng tôi bắt đầu đi Cần Giờ. Anh tài xế tên Tony, hay chở du khách ngoại quốc đi chơi, và anh có thể nói tiếng Pháp, tiếng Anh đủ để xã giao. Tony cũng nói rằng anh là người quê ở Cần Giờ. Lâu lắm rồi, anh chưa về lại đây. Hôm nay được đi Cần Giờ, anh thật là nôn nao, vui thích! Chúng tôi không dám nói cho anh biết là đi tìm xác người nhà, mà chỉ nói là đi tìm nhà người quen mà không có địa chỉ chắc chắn! Anh rất sốt sắng, vui vẻ chạy ra ngoại ô Saigon. Anh hơi lúng túng vì đường sá thay đổi nhiều quá, nên anh dừng xe lại ở một quán cà phê bên đường để hỏi đường đi. Khi anh trở ra, anh vui vẻ bảo:
- Chúng mình đi đúng hướng, đúng đường rồi!
Và anh nói tiếp:
- Lạ thật! Cả một cái bàn gần cả chục đàn ông ngồi ăn sáng uống cà phê, chỉ có MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ mà thôi. Mà bà ta lại rất rành rẽ đường sá. Chính bà này đã chỉ đường cho em đó bác và các chị! Mình cứ đi thêm một giờ nữa sẽ qua phà nhỏ, rồi sẽ đi tới một cái chợ, rồi qua cửa Cần Giờ...
Chúng tôi giật mình, chợt nhớ lại anh Dũng đã bảo sẽ có một người đàn bà chỉ đường đi... Sao lại trùng hợp như thế?!
Xe chạy trên một con đường đất đỏ đang làm dở, bụi mù mịt. Rồi cuối cùng đến bến phà. Trong thời gian chờ cái phà khoảng nửa giờ nữa mới khởi hành, tôi muốn đi mua ít nón lá để đội vì nắng quá là nắng. Mà "ngũ long công chúa" này chỉ vỏn vẹn có một cây dù thôi! Chúng tôi chọn một căn phố lầu rộng lớn có xe nước mía với ít bàn ghế ngồi, căn nhà trông thật mát mẻ với các chậu cây cảnh xanh mượt mà xung quanh. Chúng tôi mua vài ly nước mía uống, rồi tôi cùng Sáu vội vã băng qua đường để mua thêm vài cái nón lá. Khi chị em tôi trở lại, má tôi và chị chủ nhà đang nói chuyện vui như pháo nổ. Chị nhìn tôi một thoáng, và bảo:
- Bác ơi! Bác nói bác ở Dalat về Cần Giờ tìm người quen?! Bác và các cô trắng trẻo hồng hào thế này, chẻ cái đầu cháu ra, cháu cũng nói các cô và bác không phải ở Dalat, mà ở nước ngoài về! Có đúng không?! Coi nước da của các cô kìa, đỏ au cả lên.Thật là nguy hiểm quá, các cô nhìn yếu đuối như thế này, sao các cậu, các chú đâu mà để bác và các cô đi như vầy? Bác thì có tuổi, đau yếu, đi vào trong ấy hẻo lánh, rủi ro có gì có ai giúp không? Hay người ta sẽ... làm thịt cả nhà năm người đàn bà, không có lấy một người đàn ông đi cùng?!

Chúng tôi nhìn nhau, không biết phải nói sao! Nhìn lại em gái tôi, dù Sáu đã mặc một cái quần sa tin đen và chiếc áo bằng lụa cho giống thôn nữ! Nhưng, Sáu xách một cái bóp đầm (hand bag) nhìn chả giống thôn nữ tý nào cả! Tôi thì mặc một cái jean overalls thật nhiều túi với chiếc áo thun thật ...kiệm vải vì nóng quá sức đối với một người đã quen cái lạnh ở xứ băng giá gần cả năm như tôi. Mặt và cánh tay trần của tôi đỏ au lên như da lột. Ông bà trời đất đã phù hộ cho chúng tôi ngồi nghỉ chân ngay đúng nhà của chị chủ nhà thật tốt bụng. Lúc ấy khoảng 11 giờ trưa, chị bảo chúng tôi chờ một chút thôi, rồi chồng của chị đang đi đón thằng bé con tan học về, chị sẽ bảo chồng của chị hộ tống chúng tôi đi vào sâu trong Cần Giờ. Chị nói thêm, vợ chồng của chị còn không dám vào trong đó nữa, mà chúng tôi năm người đàn bà từ ngoại quốc về lại dám vào sao?!...

Chờ chỉ độ mười phút, chồng của chị chở thằng bé con đi học về. Chị trình bày câu chuyện, và người chồng thật tốt bụng y hệt như người vợ, đồng ý đi theo hộ tống chúng tôi ngay. Chẳng những thế, anh còn bảo vợ và thằng bé con đi theo luôn! Anh cũng dặn dò chúng tôi phải nói với mọi người chung quanh rằng vợ chồng của anh là bà con của chúng tôi ở đây, để dân chung quanh đấy sẽ không ăn hiếp chúng tôi.

Sau khi qua phà, rồi lên xe hơi đi thêm một đoạn, đến một ngã ba đường, chúng tôi phải xuống xe hơi, vì đường nhỏ quá, nhỏ đến độ xe không cách chi trở đầu lại được, mà chỉ có cài số de để đi về thôi... Tony phải ở lại coi chừng xe. Chúng tôi đi bộ vào sâu trong làng mạc để đi tìm cái miếu. Anh chị "bà con" này chạy xe Honda phía trước, rồi chạy ngược lại phía sau kiểm lại xem chúng tôi có được an toàn không. Càng đi sâu vào làng mạc, nhà cửa càng vắng vẻ. Xa xa mới có một cái nhà. Má tôi không thể nào đi bộ xa được. Tôi cũng thế, trước ngày đi về VN chỉ vài ngày, tôi bị bong gân khá nặng vì mang giày cao gót trượt té xuống thang lầu. Chân của tôi sưng to, rất đau nhức khi cử động. Bác sĩ dặn tôi phải nghỉ ngơi vài tuần, nhưng tôi đã mua vé về VN rồi, tôi không thể "nghỉ ngơi" được! Tôi bó cổ chân chặt lại và mang một đôi giày thật êm. Nhưng chỉ đi bộ độ 300 mét thôi, chân tôi bắt đầu làm reo. Đang ngồi bệt xuống đường để nghỉ chân, bỗng dưng, có một bé gái từ trong xóm đi ra, ẹo cái đầu ngắm chúng tôi, rồi buột miệng hỏi:
- Đi đâu dzậy mấy cô ...đẹp ơi!

... Hahaha! Em bé gái trông lôi-thôi lếch-thếch thế kia mà cũng biết nịnh đầm rồi! Tôi bảo em chúng tôi muốn đi tìm một cái miếu nào gần đây để thắp hương...
Em mừng rỡ, chạy lại nắm tay tôi kéo đi không kịp thở...
- Cái miếu ở ngay sau nhà em nè. Ngày nào em cũng ra miếu chơi hết á! Đi theo em, đi nhanh lên, tụi mình chơi... thắp nhang ở đó "nheng"?!...
Chị Tư của tôi bỗng kêu chị Hai tôi giật ngược, và bảo chị Hai tôi mở lại tờ giấy ghi chú lời tiên đoán của nhà ngoại cảm xem sao! Thật kỳ lạ! Anh Dũng đã đoán trước có một bé gái nắm tay dẫn đi đến cái miếu. Tóc em như râu bắp, rối bời, rít chịch nước biển, được túm lại bằng cái cây kẹp ba lá, đúng hệt như anh Dũng đã nói. Không giải thích được!

Đi theo em gái, chúng tôi khó nhọc men trên những bờ ruộng ghồ ghề, bước lên những thân cầu mong manh bắc ngang những mương nước nhỏ để đến cái miếu. Đây là một cái miếu như bỏ hoang, ít cọng chân nhang vẫn còn cắm trong lon sửa bò. Một tượng Phật Bà Quan Âm bụi đất bám đầy. Một bức ảnh Phật Thích Ca cũ kỹ trong khung gổ không có kính, nên nhìn càng thấy buồn hơn. Chúng tôi bày hết trái cây ra đấy, phủi bụi, lau sơ khung hình Phật Thích Ca và Phật Bà Quan Âm, rồi chúng tôi thắp nhang van vái.

Khi đi ra đường chính, anh chị "bà con" của chúng tôi đã lanh lẹ huy động được năm chiếc xe gắn máy của dân làng gần đó để chở chúng tôi đi sâu vào cửa Cần Giờ mà không cần đi bộ khổ cực nữa. Chị Tư của tôi là người "tròn trịa" nhất, bị ông tài xế thiếu kinh nghiệm chở...Việt Kiều, chạy ngang qua ổ gà, đã ...quăng chị té xuống đất, bẩn hết cả người. Cũng may mà chị và ông ta đều không sao cả!

Chúng tôi đến bến tàu, anh chị "bà con" của chúng tôi chạy đôn đáo đi ngoại giao để mướn một cái tàu đánh cá đẹp và khá lớn, nhưng phải chờ nước lên mới qua bên kia cửa biển Cần Giờ được. Trong thời gian ngồi chờ nước lên, chúng tôi lấy bánh mì, xôi, trái cây, nước... ra dùng. Chúng tôi xúm xít ngồi tụm lại với nhau, và mời anh chị "bà con" dùng chung thức ăn, thức uống với chúng tôi!
Má tôi chợt hỏi:
- Anh chị đi theo chúng tôi nãy giờ mà không biết tên anh chị là gì để xưng hô đây nữa.!
Người chồng vui vẻ trả lời:
- Dạ bác! Con tên là Tâm đó bác.
Tôi giật bắn người, trợn mắt nhìn anh! Anh vẫn điềm nhiên, vợ anh vẫn vui vẻ nói chuyện. Chị Hai tôi kề tai má tôi nói nhỏ:
- Má ơi! Ảnh tên... TÂM, tên Tâm đó má ơi...
Má tôi líu giọng lại, cứ nhìn anh Tâm, miệng lẩm bẩm:
- Sao... mà ngộ quá vậy? Sao... kỳ quá vậy... hả con?
Chị Tư tôi cũng trợn ngược mắt lên, hỏi lại lần nữa:
- Xin lổi anh, anh vừa nói anh tên gì?
- Tui tên là Tâm, Nguyễn văn Tâm. Mai mốt chị có dìa VN nữa ghé nhà tụi tui chơi. Cứ nói tên tui là không ai dám gạt hay ăn hiếp chị đâu!
Cô em gái, Sáu, chậm tiêu nhất. Nhìn thấy chúng tôi to nhỏ với nhau mà ngơ ngác không hiểu gì cả! Chị Hai tôi phải lấy tờ giấy con trong bóp ra, dí đúng vào cái tên Tâm nằm trên tờ giấy. Sáu giật nẫy mình lên, nhìn anh Tâm chầm chập, lại hỏi lại câu hỏi ngớ ngẩn này lần nữa:
- Anh tên là Tâm thiệt à? Oh... My... God...

Khoảng 2 giờ trưa, nước lên xấp xỉ đủ để tàu khởi hành qua cửa Cần Giờ. Người ta cõng má tôi xuống thuyền trước. Từ trên bờ muốn xuống thuyền, phải xắn quần lên quá đầu gối, chân dẫm lên bùn, lún rất sâu, làm tôi bồi hồi nhớ lại ngày tôi đi vượt biên mười sáu năm về trước, tôi cũng lội lên bùn ngập lún như thế này để leo lên cái thuyền thúng, rồi chuyển qua tàu lớn và đến bờ tự do của Indonesia...

Sau khi cõng má tôi, họ quay lại cõng tôi, vì tôi đang băng một miếng băng elastic ở cổ chân. Nó cũng đang sưng, đau nhức vô cùng khi tôi cử động.Tàu nổ máy, bắt đầu rẽ sóng chạy xình xịch qua bên kia cửa biển. Nhìn biển bắt đầu mở rộng ra, sóng nhấp nhô, má của tôi đã nước mắt lưng tròng, tưởng tượng ngày em tôi đi, không biết con tàu khẳm và nhỏ bé như thế nào... Chị Tư của tôi thì bồi hồi nhớ lại chuyến đi vượt biên của chị, những rượt đuổi giữa đám Công An với con tàu, rồi tàu của chị, đã liều mạng một sống một chết, xả súng bắn hết cả băng đạn vào tàu CA đang rượt theo! Có lẽ bọn CA này tưởng tàu của chị có nhiều đạn dược súng ống lắm nên không đuổi theo nữa. Chúng đâu ngờ rằng, trên tàu chỉ có độc nhất một cây súng và một băng đạn mà thôi! Còn tôi, nhìn sóng nước mênh mông, bờ lau sậy xa dần phía sau, tôi bồi hồi xúc động đến đau nhói cả ngực... Tôi ngồi lâm râm cầu nguyện, lâm râm gọi tên anh H, gọi tên em trai Út vắn số của tôi...

Tàu xình xịch chạy độ nửa giờ là qua đến cửa Cần Giờ. Chị Hai và chị Tư tôi cứ lấy giấy của anh Dũng dặn dò ra xem xét cẩn thận. Theo như anh tiên đoán, tất cả sự việc đều đã xãy ra đúng y hệt như có người sắp xếp thật lạ lùng. Chị Hai tôi quyết định mướn hai xe gắn máy của dân làng chở chị Hai và chị Tư, cùng anh chị Tâm đi tìm căn nhà nào có cánh cửa màu xanh dương.Tôi, má tôi, và Sáu thì ở lại trên thuyền chờ tin tức. Nhìn hai cha con người chủ tàu mặc quần xà lỏn, ở trần trùng trục, nước da nâu bóng ngời, cái bắp tay lực lưỡng, vấn thuốc rê hút phì phèo, tôi bỗng nhiên lo lắng! Tôi tưởng tượng họ không phải là người VN, mà là .. cướp biển Thái Lan tuy tôi chưa biết bọn cướp biển Thái Lan như thế nào!

Trên đất liền ở ngay cửa biển Cần Giờ, nhà cửa rất thưa thớt. Xa xa mới thấy có một căn nhà lá. Phải chạy khắp nơi để tìm cho ra cái nhà nào có cánh cửa màu xanh dương, có cô gái mặc áo đỏ ngồi trước hiên nhà không phải là chuyện dễ. Anh chị Tâm cũng chạy xuôi ngược trên những bờ ruộng, bờ ao nuôi cá tôm phụ tìm kiếm. Còn tôi ngồi chờ trên tàu, tay thọc vào túi quần jean overalls đầy tiền mặt mà lo lắng vô cùng.

Cuối cùng, chị Hai tôi vui mừng chạy đến báo tin là đã thấy cô gái áo đỏ ngồi trước căn nhà có một cánh cửa màu xanh dương rồi! Nếu chỉ tìm cánh cửa xanh dương, chắc đến tết Congo! Vì cánh cửa này tróc sơn hết tám mươi phần trăm rồi. Nhờ nhìn thấy cô gái áo đỏ trước, rồi thấy cái cửa xanh dương sau lưng của cô, mới tìm ra khu vực này. Thế là hai xe gắn máy bỏ hai chị tôi lại đấy, cùng vòng lại với anh chị Tâm, đón tôi, má tôi và Sáu. Tôi và Sáu ngồi chung một xe, má tôi một xe, và anh chị Tâm hộ tống vì anh chị không yên tâm để chúng tôi đi với dân chài ở đây! Tôi thật nhớ ơn anh chị này vô cùng, chúng tôi đã gặp người thật tốt giúp đỡ.

Cả gia đình năm người chúng tôi túa ra tìm chổ nào là đất có đám chuồn chuồn bay! Dân làng bắt đầu tò mò bu chung quanh chúng tôi càng lúc càng đông, đến mấy chục người. Lúc ấy, chúng tôi quyết định không giấu giếm nữa. Chúng tôi nhờ họ tìm giúp chúng tôi chỗ nào là miếng đất có chuồn chuồn bay.

Bỗng, chị Tư tôi reo lên, và xăng xái lội xuống một bãi bùn lầy có đầy chuồn chuồn đang bay vần vũ! Chúng tôi mừng rỡ, rồi vừa cầm máy quay phim, chị Tư vừa lội ra xa hơn. Chị lại reo to lên:
- Đây rồi, đây có cành cây khô với bao rác đây...
-A! Cái mai con cua đây! Ôi! Linh quá... Cái mai cua lật ngửa nè! Đúng nơi đây rồi.. Đúng chỗ rồi...

Tôi vừa vui mừng vì đã tìm được đúng chỗ, vừa đau nhói cả lồng ngực khi nghĩ mình đang đứng ngay cái nơi mà Út đã giãy giụa, đã kiệt sức vì vẫy vùng...

Chân tôi đau nhức quá, dù rất muốn xem cái mai con cua lật ngửa .... mà tôi không thể bước xuống bãi sình lầy lội này được. Vài căn nhà lá xa xa. Trước mặt là biển trời mênh mông, chỉ có dăm cây đước, đám lau sậy ngăn sóng biển không bổ mạnh vào đây như phía bên ngoài.

Dân làng đã biết chúng tôi đi tìm xác người nhà. Họ sốt sắng chạy về nhà lấy thêm cuốc xẻng. Những người đàn bà thì vây xung quanh bàn tán. Cách đây rất lâu, họ nói đã thấy ít tử thi trôi tấp vào đây. Lại có người còn nói thấy một tử thi có cái ba lô vắt chéo ngang vai. Giống như là em tôi ngày em đi chỉ mang một ba lô màu rêu quàng chéo qua vai .. Má tôi khóc sụt sùi dù chưa thấy, chưa tìm được gì cả! Tôi ráng bước lại gần hơn để nhìn cái cành cây khô, cái bao rác màu trắng, và cái mai của con cua chết lật ngửa... Tim tôi tan nát, tưởng tượng anh H. và Út cái ngày giờ xuôi tay thua cuộc vẫy vùng, rồi đau đớn, lạnh lẽo, cô đơn, nằm chôn vùi ước mộng tuổi trẻ nơi đây... Tôi khấn vái em tôi. Tôi gọi tên anh H. Tôi chỉ biết ứa nước mắt cầu nguyện. Ngực của tôi nặng thật là nặng...
...... Bến bờ nào đã ôm ấp hình hài anh?
Biển màu đen như yêu quái đưa vuốt nanh
Anh có đau không hay anh đang rất lạnh?
Nơi đâu đó anh có khóc mộng không thành?
Con thuyền cuốn anh về một cõi thênh thang
Em đâu biết trời giông gió lắm phũ phàng
Ví như mà đổi em ngồi chung cùng chuyến
Chắc hẳn giờ em không phải lệ mưa ngàn......

...Trong khi tôi đang lặng lẽ cầu nguyện, có khoảng bốn thanh niên lực lưỡng bắt đầu đào. Đào tới đâu, nước cứ túa ra tới đó. Họ cố gắng vừa đào, vừa chắt nước đổ sang chổ khác. Trời bắt đầu tắt nắng, không thể nào đào sâu hơn được. Chị Tư tôi cầm phone, cố phoned cho anh Dũng. Ở đây không bắt sóng điện đài (reception) dễ dàng như trong đất liền. Sau nhiều lần phoned, anh bắt phone lên và nói nếu đã tìm được địa điểm đúng rồi thì chỉ việc ráng đào lên thôi. Sẽ thấy được xương cốt nếu đào sâu xuống. Chúng tôi năn nỉ dân làng hết sức tát nước ra và xúm nhau đào trước khi trời tối. Nhưng, thật lạ, nước cứ ngập tràn vào, càng lúc càng nhiều hơn, nhanh hơn, không cách nào đào sâu hơn được. Chị Tư lại phoned anh Dũng. Lần này anh Dũng bỗng nhẹ giọng lại, khuyên chúng tôi hãy đi về đi: anh vừa thấy vong hồn của em tôi không muốn bị dời chổ ở nữa...

Trời buông sập tối nhanh một cách kỳ lạ. Má tôi và chúng tôi cầu nguyện lần cuối rồi ra về. Chúng tôi cho những người đào đất tiền, trả cho những người chạy xe gắn máy tiền. Tôi đã cẩn thận chia tiền ra làm nhiều túi quần. Sau này, những người biết rành về anh Dũng đã nói, chúng tôi đi về mà chưa lấy được di cốt của em tôi là một chuyện ít thấy khi anh Dũng đã đoán đúng hết các sự việc nhỏ nhặt xãy ra trước đó.

Trên xe hơi đi về, chúng tôi giở tờ giấy chị Hai ghi chú ra xem, chợt thấy còn tên một người mà chúng tôi chưa gặp trên đường đi. Đó là tên Tùng! Chúng tôi bàn với nhau:
- Chắc Tùng là tên của vợ anh Tâm đó mà mình đã sơ ý không hỏi chị ấy...
Tony chợt reo lên:
- Em nè! Em tên Tùng đây nè bác và các chị. Tên thật của em là Tùng đó mà!

Chúng tôi không thể nào ngờ được mọi sự việc lại kỳ quặc như thế! Chúng tôi về đến SG trời đã tối rồi. Dùng cơm tối ở dọc đường, rồi về lại khách sạn, chúng tôi quây quần mở cái video xem lại lúc quay phim, nhất là lúc các thanh niên đang trần trùng trục đào bới, tôi chợt thấy đám mây trên trời đang xanh biếc lúc ấy, bỗng dưng tối sầm lại như có một cái màn cửa màu xám đen đang cố kéo lại che mắt của mọi người. Tôi rewind tới, lui... Sao mây đen kia lạ lùng thế? Trời bỗng đổi màu xanh biếc qua màu xám xịt chỉ trong vài tíc-tắc...

Anh chị Tâm phoned cho chúng tôi ít hôm sau. Anh bảo chúng tôi hãy trở lại lần nữa đi, mà ngủ đêm ở nhà anh chị trước một ngày, rồi qua bên cửa Cần Giờ sáng sớm hôm sau để có nhiều thì giờ hơn. Nhưng, chị Hai tôi quyết định sẽ không đi lấy cốt của em nữa, vì đúng tối hôm đi tìm cốt Út về, lần đầu tiên trong cuộc đời, chị đã nằm chiêm bao thấy Út đứng vịn tay vào đầu giường của chị nằm, mỉm cười thật tươi chào chị, như hài lòng với những quyết định của chị và gia đình. Tôi buốt cả lòng, tôi chưa bao giờ chiêm bao thấy được anh H...
......Anh hãy về đây trong giấc ngủ em mong
Mơ thấy anh trìu mến nắn mấy tơ hồng
Ngày anh đi tóc em còn xanh như ngọc
Đợi mõi mòn nên đã hoá vạn xiềng gông......

Em trai tôi và anh H đã không cùng với chúng tôi sống và hưởng thụ một cuộc sống tự do đầy màu sắc ở trần gian, nhưng chắc chắn, em cùng anh H đang rất vui và rất toại nguyện ở một thế giới nào đó. Nơi ấy, chắc chắn là thiên đường, không bom rơi đạn nổ vì chiến tranh, không áp bức hay hơn thua, và chắc chắn không có ai... cứu xét lý lịch! Có lẽ, Út đang nắm tay ba tôi, nắm tay anh H, đang ở đâu đó, nhìn thấu nỗi đau, nỗi ray rức cùng với lòng thương nhớ của tôi với hai anh em mãi ngập tràn...
Nam Mô A Di Đà Phật...

Nhận xét

Bài được quan tâm

TRANG THƠ NHẠC VĂN CHƯƠNG ĐIỆN ẢNH TIẾU LÂM 209