CÔNG HAY TỘI ?
TRẦN GIA PHỤNG
Khi tìm hiểu công hay tội của một nhân vật lịch sử, người ta thường xét hoạt động hay công việc của người đó đóng góp như thế nào cho đất nước, dân tộc. Vậy thử áp dụng nguyên tắc nầy để đánh giá Hồ Chí Minh là người có công hay có tội trước lịch sử Việt Nam?
1.- DU NHẬP CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Hồ
Chí Minh (HCM) là đảng viên đảng Cộng Sản Pháp năm 1920, đến Moscow và
vào học Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông (Communist
University of the Toilers of the East) năm 1923. Cuối năm 1924, Liên Xô
gởi HCM qua hoạt động ở Quảng Châu (Trung Hoa). Năm 1930, vâng lệnh
Liên Xô, HCM thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) tại Hồng Kông. Sau
vài tháng, do lệnh của Liên Xô, đảng CSVN đểi tên thành đảng Cộng Sản
Đông Dương. Năm 1945, HCM cùng đảng CS cướp chính quyền và thành lập nhà
nước CS đầu tiên ở Á Châu. <!>
Khi
mới du nhập vào Việt Nam, chủ nghĩa CS được tuyên truyền là chủ nghĩa
“TAM VÔ”, gồm có “vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo”. Khi nói đến
“tam vô” thì có vẻ mơ hồ. Có lẽ cần nhìn vào hoạt động của đảng CS thì
sẽ rõ ràng hơn tính năng của chủ nghĩa “tam vô” của CS.
Do
chủ trương vô gia đình, trong Cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở Bắc Việt Nam
đảng CS khuyến khích con tố cha, vợ chồng tố nhau, anh chị em tố nhau.
Riêng cuộc CCRĐ giai doạn 5 vào 1955-1956, CS giết hại hơn 170,000
người. (Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II:
1955-1975, Hà Nội, Nxb. Khoa Học Xã Hội, tr. 85), do đấu tố kiểu “vô gia
đình”.
Chính
HCM cũng hành xử một cách “vô gia đình”. Trong di chúc trước khi chết,
HCM viết : “…tôi để sẵn mấy lời nầy, phòng khi tôi đi gặp cụ Cac Mac,
cụ Lênin…” (Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Trung Ương, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, có xem lại và bổ sung, Hà
Nội: Nxb. Sự Thật, 1975, tr. 171.) Sau khi chết, Hồ Chí Minh chỉ muốn
đi gặp mấy ông tổ CS người Đức, người Nga, mà không nghĩ đến tổ tiên,
cha mẹ, anh chị của mình bởi vỉ người CS “tam vô”.
Tổ
quốc Việt Nam đã trải hơn hai ngàn năm thăng trầm, qua bao lần bị ngoại
bang xâm lược, mà vẫn tồn tại, nên không thể có chuyện người Việt vô tổ
quốc để tiến lên thế giới đại đồng. Chỉ có tên CS Tố Hữu mới ca tụng
Trung Cộng theo kiểu “vô tổ quốc”: “Bên ni biên giới là mình,/ Bên kia
biên giới cũng tình anh em.” (Tố Hữu, “Đường sang nước bạn”.) (Nguồn:
Thơ Tố Hữu, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2003.)
Người
Việt tin tưởng vào sự hiện hữu của linh hồn ngưới quá cố, từ thời lập
quốc đã có tục thờ cúng ông bà. Người Việt cho đến thế kỷ 20 theo bốn
tôn giáo chính là Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo và Thiên Chú giáo, nên
không chấp nhận vô thần. Các tôn giáo đều có nhiều tín đồ. Nhằm tranh
giành quần chúng của các tôn giáo, nên CS chủ trương vô tôn giáo, tấn
công, tàn phá chùa, nhà thờ, di tích lịch sử và giết hại, bắt giam,
ngược đãi tu sĩ, tín đồ tôn giáo.
Như
thế, chủ nghĩa CS do HCM du nhâp vào Việt Nam hoàn toàn đối nghịch với
văn hóa dân tộc. Chẳng những thế, chủ nghĩa CS cũng đi ngược lại với
các nền văn hóa trên thế giới, nên Quốc hội của Hội đồng Âu Châu
(Parliamentary Assembly of Council of Europe) trong phiên họp ngày
25-1-2006 tại Strasbourg (Pháp) đã đưa ra nghị quyết số 1481, lên án chủ
nghĩa CS là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị CS đã vi
phạm nhân quyền tập thể. Điều 2 của nghị quyết 1481 viết: “Những chế độ
toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và
hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại
trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể.”
2.- CẦU VIỆN TRUNG CỘNG
Người
Việt vốn có tinh thần độc lập tự chủ, chống ngoại xâm. Từ khi Pháp xâm
lăng Việt Nam vào giữa thế kỷ 19, người Việt liên tục nổi lên chống
Pháp, mà không cầu viện ngoại bang. Trong khi đó, HCM và đảng CSVN cầu
viện Trung Cộng để chống Pháp. Người Pháp sinh sống ở miền ôn đới,
không hợp phong thổ Việt, không ở lại Việt Nam vĩnh viễn, trước sau gì
người Pháp cũng ra đi. Sau thế chiến thứ hai, các nước trên thế giới
dần dần giải thực một cách ôn hòa, chứ không dẫm máu, đau thương như
Việt Nam.
Trái
lại, Trung Cộng rất hiếu chiến, chủ trương trường kỳ xâm lăng, và bành
trướng lâu dài. Khi HCM cầu viện Trung Cộng năm 1950, Trung Cộng giúp
đỡ một cách hào phóng CSVN, không phải vô vị lợi mà theo lời Lưu Thiếu
Kỳ thì Trung Cộng sẽ đòi lại sau khi CSVN thành công. (Qiang Zhai, China
& the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Noth Carolina
Press, 2000, tr. 19.) Như thế có nghĩa là không có việc Trung Cộng cho
không, biếu không; không có việc Trung Cộng viện trợ không hoàn lại, mà
Trung Cộng giương bẫy nợ và đưa HCM cùng CSVN vào tròng của Trung Cộng
ngay từ thời chiến tranh 1946-1954. Đó là chưa kể Trung Cộng ngầm xúi
CSVN đánh nhau với Pháp để Trung Cộng hưởng lợi.
Hồ
Chí Minh cầu viện Trung Cộng để chống Pháp để rồi CS quốc tế, Liên Xô
và Trung Cộng thế chỗ của Pháp khống chế Việt Nam, thi như người xưa đã
nói: “đuổi cọp cửa trước, rước sói cửa sau, để tai họa lại cho hậu thế.”
(Cổ văn: “Ninh thụ vô công chi danh, bất khả đồ hữu công nhi tiền môn
cự hổ, hậu môn tiến lang, dĩ di họa ư hậu thế”. Tạm dịch nghĩa: “Thà
không có công danh, không thể mưu đồ lập công mà đuổi hổ cửa trước, rước
sói cửa sau, để tai họa lại cho hậu thế.”) Còn Phan Châu Trinh thì đã
viết một cách đơn giản cho HCM: ““quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái
lưng con ngựa, chỉ thay người cỡi mà thôi.” (Ngô Văn, Việt Nam
1920-1945, Amirillo, TX: Nxb. Chuông Rè, 2000, tt. 39-40.)
3.- GIẢI PHÓNG DÂN TỘC?
Đảng
Cộng Sản, những tác giả CS và những người thiên cộng thường ca tụng HCM
là kẻ đã có công “gỉải phóng dân tộc”. Theo nghĩa tầm nguyên, “giải”
là mở ra, “phóng” là thả ra, buông ra, không ràng buộc. Như thế, giải
phóng là đưa một đối tượng từ tình trạng bị giam hãm kềm kẹp đến trình
trạng được thoát ly, tự do, tức từ chỗ xấu đến chỗ tốt hơn. Ngang đây,
có hai vấn đề cần đặt ra: 1) HCM và đảng CS giải phóng ai? 2) Đối tượng
mà HCM và đảng CS nói rằng được CS giải phóng có thật sự được thoát gông
cùm nô lệ hay ngược lại là bị đưa vào tròng nô lệ mới?
Khi
cướp được chính quyền và ra mắt chính phủ tại Hà Nội ngày 2-9-1945, HCM
đưa ra các lời thề quyết liệt chống Pháp nếu Pháp trở lại Việt Nam,
nhưng khi Pháp tái chiếm Nam Kỳ, tiến ra Trung Kỳ, rồi đe dọa Bắc Kỳ,
thì HCM sợ bị Pháp lật đổ, nên bỏ qua lời thề ng ày 2-9, ký với Pháp
hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, thừa nhận việc Pháp đem quân
vào Việt Nam. Để chắc chắn hơn, HCM qua Pháp ký Tam ước (Modus Vivendi)
ngày 14-9-1946 tại Paris, để cho Pháp tái lập các hoạt động của Pháp
trên toàn cõi Việt Nam. Như thế có nghĩa là HCM không chống Pháp, mà
thỏa hiệp với Pháp để duy trì quyền lực.
Quân
Pháp đến Hà Nội càng ngày càng đông, đòi kiểm soát an ninh Hà Nội. Nếu
để cho Pháp kiểm soát an ninh Hà Nội, thì sinh mạng HCM và lãnh đạo
đảng CS nằm trong tay Pháp, nên HCM triệu tập hội nghị trung ương đảng
CS tại Vạn Phúc (Hà Đông) trong hai ngày 18 và 19-12-1946, quyết định
bất ngờ tấn công Pháp. (Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb.
Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504) để có lý do chính đáng trốn khỏi
Hà Nội.
Cướp
được chính quyền thì đảng CS chủ trương độc tôn quyền lực. Khi Pháp
trở lại Việt Nam thì CS thỏa hiệp với Pháp để giữ vững quyền lực, không
chống Pháp. Khi bị Pháp áp lực nặng nề và có thể bị Pháp tiêu diệt,
đảng CS mới quyết định tuyên chiến với Pháp và chuyển gánh nặng chiến
tranh lên vai dân tộc, vì sự sống còn của HCM và đảng CS, chứ không phải
để giải phóng dân tộc.
Hiệp
định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam ở sông Bến Hải, ngang vĩ
tuyến 17. Bắc Việt Nam (BVN) theo chế độ CS. Nam Việt Nam (NVN) theo
chế độ Cộng Hòa. Trước khi ký hiệp định Genève, tại hội nghị Liễu Châu
(Quảng Tây, Trung Cộng), từ ngày 3 đến 5-7-1954, Châu Ân Lai đã khuyên
HCM chôn giấu võ khí và lưu cán bộ, quân đội ở lại NVN để tiếp tục cuộc
chiến. Hồ Chí Minh liền thi hành kế hoạch nầy, nghĩa là HCM và CSVN chủ
ý sẽ tiếp tục tấn công NVN, còn việc HCM va BVN đưa ra hai khầu hiệu
“Giải phóng miền Nam” và “Chống Mỹ cứu nước” chỉ là hai chiệu bài để my
dân và phỉnh gạt dư luận thế giới mà thôi.
Năm
1954 và năm 1975, thành công xong, Hồ Chí Minh và CS đã áp đặt miền BVN
(1954) và sau đó NVN (1975) dưới chế độ CS, độc tài đảng trị, toàn trị,
theo chính sách kinh tế chỉ huy, làm cho dân chúng Việt Nam càng ngày
càng cùng khổ. Do đó, không thể nói HCM và đảng CS đã giải phóng đất
nước, giải phóng dân tộc, mà phải nói là HCM và đảng CS đã nô lệ hóa đất
nước trong gông cùm cộng sản.
4.- CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC?
Để
có lý do gây chiến, xâm lăng Nam Việt Nam sau năm 1954, HCM và CSVN cầu
viện các nước CS để thực hiện chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”. Sau thế
chiến thứ hai, Liên Xô chiếm các nước Đông Âu, Trung Cộng chiếm Tân
Cương, Tây Tạng. Ngược lại, tuy chiến thắng Đức, Nhật Bản, Nam Hàn,
nhưng Hoa Kỳ không chiếm các nước nầy, mà trao trả độc lập và giúp các
nước nầy phục hưng kinh tế nhanh chóng, tiến bộ vượt bậc, nghĩa là Hoa
Kỳ chủ trương giúp các nước khác trên thế giới cùng phát triển với Hoa
Kỳ. Chính bản thân diện tích nước Hoa Kỳ quá rộng, dân số chưa đủ để
canh tác cho hết đất của Hoa Kỳ. Hàng năm, Hoa Kỳ còn cho nhiều người
ngoại quốc nhập cư, thì Hoa Kỳ cần gì phải xâm lăng nước khác như Trung
Cộng bị nạn nhân mãn mãn tính.
Hồ
Chí Minh và các lãnh tụ đảng Lao Động dư biết những điều trên đầy,
nhưng vì vâng lệnh Châu Ân Lai tại hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung
Hoa) từ 3 đến 5-7-1954, nên HCM đưa ra chủ trương “chống Mỹ cứu nước”
ngay trước khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954.
Hoa
Kỳ đến Nam Việt Nam vì chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ, giúp đỡ Nam Việt
Nam tái thiết sau năm 1954, , nhằm chống lại sự bành trướng của CS
chứHoa Kỳ không có tham vọng đất đai. Nhờ thế, Nam Việt Nam phồn thịnh
nhanh chóng hơn các nước Đông Nam Á. Khi Hoa Kỳ thay đổi chiến lược,
bắt tay với Trung Cộng, Hoa Kỳ nhanh chóng rút hết quân về nước.
Còn
HCM cầu viện Trung Cộng, rước 320,000 quân Tàu vào trấn giữ miền bắc
sông Hồng, thì ngày nay Việt Nam phải gánh nỗi khổ Trung Cộng, mất đất
(Hoàng Sa, Nam Quan), mất biển (10,000 Km2 Vịnh Bắc Việt), và Biển Đông
bị Trung Cộng đe dọa triền miên. Đó là kết quả kế hoạch “Ta đánh Mỹ là
đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”. (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày,
Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422ct. Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại
trưởng CSVN (1991 đến 2000), tiết lộ lời của Lê Duẩn trong cuộc phỏng
vấn của đài BBC ngày 24-1-2013.
KẾT LUẬN: HỒ CHÍ MINH = TỘI ĐỒ DÂN TỘC
Qua
những hoạt động trên đây, thì HCM là một đảng viện CS Pháp, vâng lệnh
Liên Xô và Trung Cộng, thành lập đảng CS Việt Nam, phá hoại nền văn hóa
dân tộc, bành trướng chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á, và chủ động gây ra hai
cuộc chiến liên tiếp từ 1946 dến 1975. Theo thống kê của tạp chí Polska
Times (Thời Báo Ba Lan) ngày 5-3-2013, trong 24 năm cầm quyền
(1945-1969), HCM đã gây ra cái chết của 1,7 triệu người dân Việt.
Như
thế, cân nhắc những hoạt động và việc làm cụ thể của Hồ Chí Minh, thì
Hồ Chí Minh chỉ có công với cộng sản quốc tế, với Liên Xô, với Trung
Cộng. Ngược lại Hồ Chí Minh là kẻ có tội với đất nước Việt Nam, và Hồ
Chí Minh là TỘI ĐỒ số 1 của dân tộc Việt Nam từ xưa tới nay, gây nhiều
tội ác nhứt trong lịch sử Việt Nam. Không chối cãi vào đâu được.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 01-09-2020)
Nhận xét
Đăng nhận xét