Nasri Hajjaj
Hai truyện ngắn
Trần Quốc Việt dịch
Trái cam đói
Tôi là liệt sĩ. Tôi bị giết trong cuộc chiến tranh nhỏ vì tổ quốc. Trước khi kẻ thù giết tôi, tôi thường thích những cánh bướm nhiều sắc màu - những bạn hoa màu đỏ, vàng, trắng và tím. Tôi thích chim hót trên bầu trời bao la. Tôi cũng thích cam. Sau khi sự sống bỏ tôi đi, tôi bắt đầu mơ trong khi chết.
Tôi mơ trèo lên cây cam để với tay đến trời cao hái sao, nhưng một trái cam đói thấy tôi liền nuốt chửng tôi.
Trước một đám đông người một người đàn ông trông rất nghiêm nghị đứng lên nói, ‘Liệt sĩ này là anh hùng.’Rồi hắn ta uống ly nước cam.
***
Súp cho con cái
Cha tôi sai tôi đi ra nghĩa trang để rửa mộ người anh liệt sĩ, nhổ cỏ dại mọc quanh những nấm mộ không người chăm sóc và tưới nước cho những cây phong lữ mà tỏa mùi hương rất đặc trưng cho nhà cửa và nghĩa trang chúng tôi.
Chẳng mấy chốc trời sẽ tảng sáng. Tôi đứng trước cổng nghĩa trang, nhưng tôi không phải là người duy nhất đến đây vào lúc đêm khuya này. Có hàng ngàn người giống như tôi mang kéo cắt cỏ và bình tưới nước, và cả cơn ngái ngủ. Cổng vẫn còn khoá và người bảo vệ có lẽ chưa đến, mặc dù hôm nay là Ngày Liệt sĩ là ngày tất cả chúng tôi đều vinh danh những người đã chết vì tổ quốc.
Chim chóc thức dậy đầu tiên và chúng tôi nghe chúng hót nhưng lòng chúng tôi không vui. Rồi ánh bình minh âm thầm chiếu le lói qua các cây thông,bách và xoan,và cây cối ở nghĩa trang trông giống như những người lính khổng lồ.
Một cánh bướm màu đen và vàng bay lên bức tường cao của nghĩa trang và lúc ngước lên nhìn theo bướm, chúng tôi chợt thấy tường nghĩa trang đã bạc phếch. Bướm đậu trên cành bách, rồi bay vút lên bầu trời xa xăm và biến mất dạng.
Đám đông trở nên bồn chồn sốt ruột khi nắng bắt đầu chiếu qua cành cây và sáng lấp lánh trên những giọt sương trên lá. Ánh nắng tưởng như rất ghê tởm khi chạm đến người chúng tôi. Những người chờ đợi bắt đầu cằn nhằn, còn người bảo vệ vẫn chưa đến.
Một người đàn ông trong đám đông kêu lên, ‘Tức thật chứ!’
Một người đàn bà hét lên, ‘Chán chết đi được!’
Người khác nói, ‘Chúng ta đã mất hy vọng!‘
Một người khác tiếp lời, ‘Chúng ta đã chẳng còn tin tưởng mọi thứ gì nữa!’
Một đứa bé chưa tới hai tuổi bước đến nói, 'Con tuyệt vọng lắm rồi.’
Lúc nắng lên đám đông khổng lồ rùng rùng lao đến cổng nghĩa trang và giật sập cổng. Mọi người tỏa ra khắp các ngôi mộ, người nào mộ nấy, và họ bắt đầu hăng hái đập phá tan tành mồ mả. Rồi họ bắt đầu đào mộ lên, nhặt lấy xương cốt của người chết và bỏ vào những bao ni lông giống như những bao thường đựng rác. Họ vác bao lên vai, túa ra khắp các ngả đường khi mồ hôi tuôn trào ra như tắm trên người họ.
Tôi ở trong đám đông,vác xương cốt của anh mình trong túi ni lông đen. Chúng tôi nghe tiếng thở phì phò tập thể của chúng tôi như thể đó là tiếng thở của con quái vật đang bị đạo quân ruồi và muỗi đuổi sát theo sau lưng.
Đầu tiên chúng tôi đi dọc theo đường Liệt sĩ, rồi đến đường Tự do, mà dẫn đến Quảng trường Độc lập.
Tại đấy chúng tôi bắt đầu đi chậm lại, như thể cùng một lúc tất cả chúng tôi đều hỏi mình cùng một câu hỏi,'Bây giờ đi đâu tiếp?' Lúc này từ trong đám đông xuất hiện một người đàn ông mà chúng tôi đều biết là một trong những gã khôn ngoan nhất và xảo trá nhất; hắn phát biểu với chúng tôi bằng giọng oang oang không cần loa mà khắp nơi vẫn nghe rõ:
‘Ngày hôm nay, mọi người vì tổ quốc đã thực hiện một trong những kỳ công vinh quang nhất. Mọi người đã san bằng nghĩa địa. Người chết thì đã chết rồi, nhưng tổ quốc lại đang cần từng tấc đất để làm nhà cửa cho người sống và trồng lương thực để chúng ta có thể xây dựng nền kinh tế tự do và độc lập. Cảm ơn mọi người, cảm ơn những đôi tay của mọi người!’
Tất cả chúng tôi đều vỗ tay, tung hô hắn ta muôn năm và tổ quốc muôn năm. Rồi sau đấy chúng tôi bắt đầu rán hết sức hát quốc ca, và lúc chúng tôi hát xong, đứa bé chưa đến hai tuổi ấy kêu lên, ‘Bây giờ làm gì với xương cốt người thân đây?’
Người đàn ông khôn ngoan ấy trả lời với vẻ bình thản và tự tin, ‘Hãy nghiền chúng ra làm súp cho con cái các người ăn.’
Chúng tôi làm y như vậy.
Nasri Hajjaj là nhà văn và nhà báo người Palestine.
Nguồn: Dịch từ tạp chí Anh Index on Censorship số ra tháng Bảy, 2002. Bản dịch tiếng Anh của Ibrahim Muhawi.
Nhận xét
Đăng nhận xét